Luận văn Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh

pdf 83 trang vuhoa 23/08/2022 10440
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_bao_ve_quyen_loi_cua_nguoi_tieu_dung_trong_tiem_pho.pdf

Nội dung text: Luận văn Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh

  1. V VIỆN HÀN LÂM Ũ THỤY BẢO VY Ũ THỤY VY BẢO KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THỤY BẢO VY LUẬT KINH TẾ LUẬT KINH BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI TIÊU DÙNG TRONG TIÊM PHÒNG VACCIN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC KHÓA VI – ĐỢT 1 ĐỢT - 2015 HÀ NỘI, NĂM 2017
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ THỤY BẢO VY BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI TIÊU DÙNG TRONG TIÊM PHÒNG VACCIN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN CƢƠNG HÀ NỘI, năm 2017
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU . 01 Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi của ngƣời tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin 07 1.1 Khái quát về vaccin và tiêm phòng vaccin . 07 1.2 Khái quát về người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin . 08 1.2.1 Khái niệm người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin 08 1.2.2 Đặc điểm của người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin . 09 1.3 Khái quát về chủ thể cung cấp dịch vụ tiêm phòng vaccin . 11 1.3.1 Các chủ thể tham gia cung cấp dịch vụ tiêm phòng vaccin .11 1.3.2 Điều kiện bảo đảm chất lượng dịch vụ tiêm phòng vaccin 13 1.4 Khái quát chung về pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin 18 1.4.1 Sự cần thiết bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin bằng pháp luật . 18 1.4.2 Cấu trúc pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin . 19 Chƣơng 2: Thực trạng bảo vệ quyền lợi của ngƣời tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin theo pháp luật Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh . 23 2.1 Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin ở Việt Nam hiện nay 23 2.1.1 Quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng 23 2.1.2 Trách nhiệm của chủ thể cung cấp dịch vụ tiêm phòng vaccin 26 2.1.3 Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước 30 2.1.4 Các biện pháp chế tài xử lý vi phạm quyền lợi người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin . 33
  4. 2.2 Thực tiễn bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin tại Thành phố Hồ Chí Minh 37 2.2.1 Thực trạng về sử dụng và bảo quản vaccin . 37 2.2.2 Thực trạng phổ biến thông tin liên quan đến chất lượng vaccin cho người tiêu dùng 42 2.2.3 Thực trạng thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm của các cơ quan quản lý nhà nước 45 2.2.4 Thực trạng áp dụng các biện pháp, chế tài xử lý vi phạm quyền lợi người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin . 46 2.2.5 Những bất cập về quy định và tổ chức thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin . 54 Chƣơng 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin ở thành phố Hồ Chí Minh 60 3.1 Yêu cầu nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin ở thành phố Hồ Chí Minh . .60 3.2 Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin . 62 3.3 Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 67 KẾT LUẬN . 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
  5. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 1. BVQLNTD Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2. GMP Good Manufacturing Practice (Tiêu chuẩn thực hành sản xuất tốt) 3. GSP Good Storage Practice (Thực hành tốt bảo quản thuốc) 4. NTD Người tiêu dùng 5. TCMR Tiêm chủng mở rộng
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sự phát triển nhanh nhiều chủng loại virus mới gắn với sự lan truyền nhiều loại bệnh truyền nhiễm trên thế giới (như bệnh sốt xuất huyết, tay chân miệng, bệnh Ebola, Zika, cúm, ) đã tạo nên sức ép rất lớn đối với ngành y tế của thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Sự hoành hành của các dịch bệnh này cũng gây sức ép lớn đối với công tác phòng chống bệnh trong cộng đồng đồng thời tạo sự thay đổi trong nhận thức của người dân đối với công tác tiêm phòng vaccine (một trong những phương pháp phòng chống bệnh hiệu quả, tiết kiệm chi phí). Trước nhu cầu cao về số lượng, chủng loại và chất lượng vaccin trong phòng chống dịch bệnh, các nhà khoa học, các viện bào chế, nghiên cứu đã cố gắng tìm kiếm, nghiên cứu, phát minh, thử nghiệm các loại vaccin mới, cải thiện công dụng, tính năng của các loại vaccin hiện có nhằm nâng cao hiệu quả của việc phòng chống bệnh (giảm số lượng mũi tiêm, nâng cao chất lượng, độ an toàn và hiệu lực của vaccin phòng bệnh). Trong khi hàng hóa, sản phẩm không đảm bảo chất lượng nếu được lưu thông trên thị trường sẽ gây ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của người dân (người tiêu dùng), thì vaccin (với tư cách là một hàng hóa đặc biệt, liên quan trực tiếp đến sức khỏe, sinh mạng của người sử dụng) không bảo đảm chất lượng được đưa vào lưu thông sẽ gây ảnh hưởng đặc biệt lớn. Trên thực tế, do chất lượng vaccin không bảo đảm, đã có trường hợp người được tiêm phòng bị tai biến sau tiêm dẫn đến những di chứng lâu dài về sức khỏe, thậm chí bị tử vong. Khi rủi ro đó xảy ra, người tiêm phòng phải chịu hậu quả nặng nề về vật chất lẫn tinh thần của mình và nhân thân trong khi niềm tin của xã hội vào dịch vụ tiêm phòng vaccin bị giảm sút mạnh, rất không có lợi cho công tác phòng, chống dịch bệnh chung của toàn xã hội. 1
  7. Trong những năm gần đây, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được Nhà nước quan tâm hoàn thiện nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng. Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể trong mối quan hệ giao dịch giữa người tiêu dùng và người cung cấp. Điều đó thể hiện rõ trong các quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Những quy định đó cũng được áp dụng cho việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin không chỉ được Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 bảo vệ mà còn được các quy phạm pháp luật chuyên ngành về y dược hoặc các lĩnh vực có liên quan bảo vệ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, tình trạng quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin vẫn bị vi phạm trong khi cơ chế bảo vệ còn khá kém hiệu lực, hiệu quả. Trong bối cảnh đó, việc tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin là cần thiết. Đó là lý do tôi chọn đề tài “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trong những năm gần đây đã được sự quan tâm nghiên cứu nhiều hơn của giới nghiên cứu và các nhà hoạt động thực tiễn. Đến nay đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài này như: - Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, “Trách nhiệm sản phẩm của doanh nghiệp - công cụ pháp lý bảo vệ người tiêu dùng”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Lê Hồng Hạnh (chủ nhiệm), Hà Nội, 2010; - Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, “Tăng cường năng lực các thiết chế thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam”, Đề tài 2
  8. nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Nguyễn Thị Vân Anh (chủ nhiệm), Hà Nội, 2014; - Trường Đại học Luật Hà Nội, “Nghiên cứu pháp luật về quyền được cung cấp thông tin và bảo vệ thông tin của người tiêu dùng ở Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, 2013 (do TS. Nguyễn Thị Vân Anh làm chủ nhiệm). - Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Dự án điều tra cơ bản “Đánh giá thực trạng thi hành pháp luật về an toàn thực phẩm và vai trò của các cơ quan bảo vệ pháp luật” năm 2013-2015 (do TS. Nguyễn Văn Cương làm chủ nhiệm). - Luận án Tiến sỹ, “Trách nhiệm của doanh nghiệp đối với chất lượng sản phẩm hàng hóa”, Chu Đức Nhuận, Học viện KHXH, 2012; - Luận án Tiến sỹ, “Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay”, Nguyễn Thị Thư, Học viện KHXH, 2013; - Luận văn thạc sỹ, “Trách nhiệm đảm bảo chất lượng sản phẩm hàng hóa của nhà sản xuất theo Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay”; Trần Thanh Thất, Học viện KHXH, 2014. - Luận án Tiến sỹ “Thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng ở Việt Nam” của tác giả Lê Thanh Bình (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2012); - Luận văn Thạc sỹ “Pháp luật điều chỉnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Ngô Lan Hương (Học viện Khoa học xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, năm 2015); - Luận văn Thạc sỹ “Bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh thực phẩm theo pháp luật nước ta hiện nay” của tác giả Nguyễn Diệu Vũ (Học viện Khoa học xã hội – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, năm 2016); 3
  9. - Luận văn Thạc sỹ "Thực hiện chính sách bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam giai đoạn hiện nay" của tác giả Trần Thanh Tú (Học viện Khoa học xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, năm 2016); - “Trách nhiệm nghiêm ngặt và miễn, giảm trách nhiệm trong pháp luật về trách nhiệm sản phẩm”, Phạm Thị Phương Anh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10/2010, tr.26-33; - “Pháp luật trách nhiệm sản phẩm của Canada”, Trương Hồng Quang, Tạp chí Luật học, số 7/2011, tr.70-76; - “Một số vấn đề chung về chế định trách nhiệm sản phẩm và vai trò của chế định này dưới góc độ bảo vệ người tiêu dùng”, Trần Thị Quang Hồng - Trương Hồng Quang, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 12/2010, tr.25-34; - “Một số vấn đề về luật trách nhiệm sản phẩm cộng đồng chung Châu Âu”, Nguyễn Am Hiểu, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 2/2010, tr.43-45; - “Một số vấn đề lý luận về quyền được thông tin của người tiêu dùng”, Nguyễn Văn Cương, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 8/2013. Mỗi công trình nghiên cứu đều đề cập đến từng khía cạnh riêng trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, nhắm vào từng đối tượng và phạm vi nghiên cứu cụ thể như quyền được thông tin của người tiêu dùng, hay bảo vệ người tiêu dùng trong từng lĩnh vực cụ thể . Mỗi công trình nghiên cứu cũng đã góp phần nâng cao nhận thức về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói chung và từng lĩnh vực cụ thể mà công trình nghiên cứu. Tuy nhiên vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập trực tiếp đến vấn đề bảo vệ quyền lợi cho người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin theo pháp luật Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu chủ đề “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” với cấp độ là luận văn thạc sĩ luật học không có sự trùng lặp với các công trình nghiên cứu đi trước. 4
  10. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích thực trạng quy định và thực tiễn thực thi quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin, luận văn nhận diện rõ những hạn chế, bất cập, từ đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin đồng thời kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục tiêu như trên, luận văn đề cập đến những nội dung chủ yếu như: - Nhận diện những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin. - Phân tích thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin, gắn với thực trạng thực thi hiện nay tại Thành phố Hồ Chí Minh. - Đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin và nâng cao hiệu quả thực thi. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, pháp luật chuyên ngành y tế về tiêm phòng vaccin và thực tiễn thi hành tại Thành phố Hồ Chí Minh. Phạm vi nghiên cứu: pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và pháp luật chuyên ngành về y tế trong vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5
  11. Trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu thông dụng trong nghiên cứu pháp luật như phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê (nhất là phân tích quy phạm, đánh giá thực tiễn). 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần làm sâu sắc thêm một số khía cạnh lý luận về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin bằng pháp luật, đánh giá thực trạng quy định và thực tiễn thực thi, nhận diện những bất cập hiện có và gợi ý những giải pháp hoàn thiện cho các nhà hoạch định chính sách hoặc những nhà quản lý, điều hành có liên quan. Luận văn cũng giúp làm sáng tỏ quyền và trách nhiệm của các chủ thể tham gia trong quá trình tiêm phòng vaccin. Luận văn có thể trở thành tài liệu dùng để tham khảo trong quá trình hoạch định chính sách, pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin, giải quyết các vấn đề bồi thường thiệt hại khi có tai biến sau tiêm phòng, đồng thời cũng là tài liệu tham khảo cho cán bộ, sinh viên nghiên cứu và học tập. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 03 chương: Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin. Chƣơng 2: Thực trạng bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin theo pháp luật Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chƣơng 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin ở thành phố Hồ Chí Minh. 6
  12. Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƢỜI TIÊU DÙNG TRONG TIÊM PHÒNG VACCIN 1.1 Khái quát về vaccin và tiêm phòng vaccin (vắc xin) Ngày nay, vaccin là một trong những công cụ được sử dụng hiệu quả trong công tác phòng chống bệnh ở nước ta. Không giống như các phương pháp y tế khác, tiêm phòng vaccin giúp giảm thiểu tỷ lệ mắc bệnh, tử vong, giảm chi phí điều trị, thời gian và chăm sóc người bệnh, góp phần nâng cao sức khỏe cộng đồng. Cùng với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ trong nghiên cứu tìm kiếm các phương pháp mới trong phòng chống bệnh tật, con người đã và đang nghiên cứu, phát minh thêm các loại vaccin để phòng chống bệnh tật. Vaccin là một sản phẩm sinh học dùng để tiêm chủng cho các cá thể nhằm tạo ra miễn dịch chủ động bảo vệ cá thể được tiêm chủng chống lại một căn bệnh cụ thể. Vaccin tương tác với hệ thống miễn dịch và thường tạo ra một đáp ứng miễn dịch tương tự như tạo ra bởi các nhiễm trùng tự nhiên, nhưng không gây bệnh hoặc các biến chứng tiềm tàng cho người được tiêm chủng. Khoản 3 Điều 2 Luật Dược năm 2005 quy định: “Vắc xin là chế phẩm chứa kháng nguyên tạo cho cơ thể khả năng đáp ứng miễn dịch, được dùng với mục đích phòng bệnh”. Kế thừa quy định này, Khoản 13 Điều 2 Luật Dược năm 2016 (hiệu lực thi hành ngày 01/01/2017) quy định: “Vắc xin là thuốc chứa kháng nguyên tạo cho cơ thể khả năng đáp ứng miễn dịch được dùng với mục đích phòng bệnh, chữa bệnh”. Kháng nguyên (antigen) là những phần tử đặc biệt kích thích sự miễn dịch của cơ thể, có thể sản xuất ra kháng thể, gây phản ứng miễn dịch. Kháng 7
  13. nguyên có thể có nguồn gốc từ bên ngoài môi trường như hóa chất, virus, vi nấm, vi tảo, hoặc từ bên trong cơ thể như độc tố, mảnh tế bào, Vắc xin là chế phẩm có tính kháng nguyên dùng để tạo miễn dịch đặc hiệu chủ động, nhằm tăng sức đề kháng của cơ thể đối với một (số) tác nhân gây bệnh cụ thể. Tiêm phòng vaccin (tiêm chủng) là việc đưa vaccin vào cơ thể con người với mục đích tạo cho cơ thể khả năng đáp ứng miễn dịch để dự phòng bệnh tật. Tiêm phòng vaccin là biện pháp hữu hiệu và là việc làm cần thiết trong công tác phòng chống bệnh tật hiện nay. Chính vì thế, để phát huy tối đa tác dụng của vaccin, người tiêm phòng vaccin cần phải thực hiện việc tiêm phòng đúng lịch, đủ mũi tiêm, đủ liều. 1.2 Khái quát về ngƣời tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin 1.2.1 Khái niệm người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin Những năm trước khi đất nước đổi mới, nhận thức về người tiêu dùng nói chung và pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng nói riêng còn khá sơ khai. Kể từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới, nền kinh tế có sự chuyển biến rõ rệt từ cơ chế bao cấp, tập trung sang cơ chế thị trường, quan hệ giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất, kinh doanh hàng hóa và dịch vụ với một bên là người bỏ tiền ra để mua hàng hóa và dịch vụ đó để phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng của cá nhân, gia đình, tổ chức (gọi chung là người tiêu dùng) ngày càng đa dạng và phổ biến. Khái niệm người tiêu dùng với tư cách là một chủ thể pháp luật đã chính thức được pháp luật Việt Nam công nhận kể từ khi Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999. Điều 1 của Pháp lệnh này quy định rõ “người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng sinh hoạt của cá nhân, gia đình và 8
  14. tổ chức.” Kế thừa quy định này, Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 quy định: “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức.” Hiện nay, các nhà sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ rất chú trọng vào việc đa dạng hóa các chủng loại mẫu mã hàng hóa, dịch vụ cung ứng cho thị trường, nhằm thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Có thể nói người tiêu dùng chính là đối tượng để các nhà sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ hướng tới để phục vụ bằng việc sáng tạo, hoàn chỉnh hơn những sản phẩm của mình. Tiêm phòng vaccin cũng là lĩnh vực như vậy. Tuy nhiên, trong lĩnh vực y tế, vaccin là một trong những hàng hóa đặc biệt phải được sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng, thời gian, đủ liều lượng và chủng loại vaccin. Người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin phải đến các cơ sở y tế đủ điều kiện để tiêm phòng theo hình thức tự nguyện (dịch vụ) hoặc bắt buộc (Chương trình Tiêm chủng mở rộng; nguy cơ mắc bệnh truyền nhiễm tại vùng có dịch, ). Cũng cần phải lưu ý là người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin có thể không có quan hệ trực tiếp với bên cung cấp vaccin, chẳng hạn như cha mẹ đăng ký và thanh toán tiền tiêm phòng vaccin cho đứa con, khi đó đứa con không tham gia vào giao dịch mua bán nhưng vẫn là người tiêu dùng. 1.2.2 Đặc điểm của người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin Người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin gồm hai đối tượng chính: - Người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin tự nguyện: mọi người đều có quyền đến các cơ sở y tế yêu cầu tiêm phòng vaccin để bảo vệ sức khỏe cho chính bản thân mình, cho người thân của mình và cho cộng đồng. - Người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin bắt buộc: Trong Chương trình Tiêm chủng mở rộng, tất cả trẻ em, phụ nữ có thai phải sử dụng vaccin bắt buộc để phòng các bệnh truyền nhiễm thuộc chương trình này như Vaccin BCG (phòng bệnh Lao), vaccin viêm gan B liều sơ sinh; vaccin Quinvaxem 9
  15. (phòng bệnh Bạch hầu – ho gà – uốn ván – viêm gan B – viêm phổi, viêm màng não do vi khuẩn Hib), vaccin sởi, vaccin viêm não nhật bản, vaccin uốn ván Cha, mẹ hoặc người giám hộ của trẻ em phải đưa trẻ đến các cơ sở y tế đủ điều kiện để thực hiện tiêm phòng vaccin bắt buộc theo yêu cầu của cơ sở y tế có thẩm quyền. Ngoài ra, người có nguy cơ mắc bệnh truyền nhiễm tại các vùng có dịch hoặc đi đến các vùng có dịch đều phải tiêm phòng vaccin đối với các bệnh có vaccin phòng ngừa (chẳng hạn bệnh viêm màng não). Dù thuộc trường hợp nào trong các trường hợp đã nói ở trên, người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin cũng có các đặc điểm sau: Người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin gặp yếu thế về thông tin so với các cơ sở y tế, nhà nhập khẩu, nhà phân phối, nhà sản xuất (gọi chung là nhà cung ứng vaccin), việc tiếp cận, tìm hiểu các thông tin liên quan đến vaccin. Người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin do không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, phân phối, bảo quản vaccin cũng như yếu thế về chuyên môn về y dược nên không thể hiểu đầy đủ các công dụng, chất lượng, rủi ro mà khi tiêm phòng vaccin có thể xảy ra. Người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin còn bị yếu thế về khả năng gánh chịu rủi ro trong tiêm phòng vaccin. Khi xảy ra rủi ro, người tiêu dùng phải gánh chịu các chi phí liên quan để khắc phục rủi ro như chi phí điều trị, đi lại, nếu có tai biến nghiêm trọng dẫn đến mất sức lao động hoặc thiệt mạng thì sẽ để lại những hậu quả nghiêm trọng mà không thể bù đắp lại được. Bên cạnh đó, người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin còn yếu thế về khả năng thương lượng, đàm phán, chi phối giá cả, điều kiện giao dịch. Người tiêu dùng thường bị động trong việc nắm bắt thông tin về giá cả, họ cũng không có cơ hội để chọn lựa nơi cung cấp với một số loại vaccin trong thời gian khan hiếm nguồn cung. Một số trường hợp, người tiêu dùng sử dụng dịch 10
  16. vụ của đơn vị giả mạo dẫn đến tiền mất tật mang hoặc trực tiếp đi nước ngoài để có liều vaccin tiêm ngừa với chi phí đắt đỏ. Ví dụ [23] tình trạng khan hiếm vaccin Pentaxim (5 trong 1) vào thời điểm cuối năm 2015 và 6 tháng đầu năm 2016 đã tạo thành cơn sốt và đẩy giá loại vaccin này đang dao động từ 550.000đ – 650.000đ lên đến vài triệu đồng mà người tiêu dùng vẫn sẵn lòng chấp nhận tiêm ngừa cho trẻ mà vẫn không có vaccin này để tiêm phòng. Bên cạnh đó, ngoài chi phí tiêm phòng, người tiêu dùng còn phải tốn kém chi phí đi lại khi chỉ có vài nơi có mặt hàng vaccin này, hay phải mất nhiều thời gian xếp hàng chờ tiêm. [19] Vào tháng 12/2015, Tp. Hồ Chí Minh đã triển khai chỉ nhận đăng ký tiêm phòng vaccin Pentaxim (5 trong 1) qua tổng đài 1080. Đây cũng là biện pháp mà Tp. Hồ Chí Minh đã áp dụng để hạn chế việc tốn kém chi phí đi lại, thời gian cũng như bảo đảm được an toàn tiêm chủng tại các cơ sở y tế. Từ ví dụ trên cho thấy những yếu thế mà người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin có thể sẽ gặp phải do người tiêu dùng trong tiêm phòng vaccin luôn ở thế bị động do không làm chủ được thông tin về vaccin, gánh nặng chi phí phát sinh mà người tiêu dùng phải chịu khi xảy ra tai biến sau tiêm chủng là rất lớn (vật chất lẫn tinh thần). Thực tế ấy cho thấy, người tiêu dùng vaccin cũng có những đặc điểm về tính yếu thế trong quan hệ với tổ chức, cá nhân cung ứng hàng hóa, dịch vụ giống với người tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ thông thường khác, nhưng nhiều khía cạnh về tính yếu thế có thể nghiêm trọng hơn do tầm quan trọng đặc biệt của vaccin đối với sức khỏe của con người và do vaccin là loại sản phẩm có chứa hàm lượng tri thức khoa học và công nghệ rất cao mà người tiêu dùng nói chung rất khó làm chủ. 1.3 Khái quát về chủ thể cung cấp dịch vụ tiêm phòng vaccin 1.3.1 Các chủ thể tham gia cung cấp dịch vụ tiêm phòng vaccin 11
  17. Việc cung cấp dịch vụ viêm phòng vaccin thường liên quan tới 2 nhóm chủ thể chính là: chủ thể trực tiếp cung cấp dịch vụ tiêm phòng vaccin là các cơ sở y tế trực tiếp cung ứng dịch vụ tiêm phòng vaccin đến người tiêu dùng và chủ thể gián tiếp cung cấp vaccin cho chủ thể trực tiếp cung ứng dịch vụ tiêm phòng vaccin như nhà sản xuất vaccin, nhà nhập khẩu/phân phối vaccin. Đối với chủ thể trực tiếp cung cấp dịch vụ tiêm chủng là các cơ sở y tế có chức năng tiêm chủng: Đây là các cơ sở y tế được cấp phép hoạt động cung cấp dịch vụ tiêm chủng vaccin. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, các cơ sở y tế có chức năng tiêm chủng phải kể đến như các bệnh viện (tuyến tỉnh, quận/ huyện), Viện Pasteur Tp. HCM, các trạm y tế phường, các phòng khám đa khoa, có giấy phép hoạt động theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh, các trung tâm y tế dự phòng (thành phố, quận/ huyện) được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện tiêm chủng, Các cơ sở này có trách nhiệm đảm bảo thực hành an toàn tiêm chủng như tổ chức, bố trí nhân lực có trình độ chuyên môn, nơi tư vấn, nơi khám sàng lọc trước khi tiêm, nơi tiêm chủng, ngoài ra cần bố trí đầy đủ cơ số thuốc chống sốc, thuốc cấp cứu và điều trị kịp thời các trường hợp phản ứng sau tiêm. Đối với chủ thể gián tiếp cung cấp vaccin cho chủ thể trực tiếp cung cấp dịch vụ tiêm chủng như nhà sản xuất vaccin (trong và ngoài nước): đây thường là các công ty sản xuất vaccin: nếu như trước đây nước ta phải phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn vaccin ngoại nhập, thì nay đã có 4 nhà sản xuất vaccin sản xuất được 11/13 loại vaccin thuộc Chương trình Tiêm chủng mở rộng: Công ty TNHH một thành viên vaccin và sinh phẩm số 1 (VABIOTECH), Công ty TNHH một thành viên vaccin Pasteur Đà Lạt (DAVAC), Trung tâm Nghiên cứu sản xuất vaccin và sinh phẩm y tế (POLYVAC) và Viện Vaccin và sinh phẩm y tế (IVAC). Tuy nhiên, các nhà sản xuất này vẫn chưa đáp ứng hết được nhu cầu về chủng loại vaccin nên 12
  18. hàng năm, Việt Nam vẫn nhập khẩu từ các nước có nền công nghiệp sản xuất vaccin phát triển như Pháp, Mỹ, Bỉ, (nhà sản xuất nước ngoài như Sanofi Pasteur, Glaxo Smith Kline, ). Nhà sản xuất vaccin với dây chuyền công nghệ hiện đại để sản xuất vaccin phục vụ cho nhu cầu phòng chống bệnh của người tiêu dùng, giảm thiểu nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm ở cộng đồng. Đồng thời cũng đưa ra những hướng dẫn chi tiết về cách bảo quản từng loại vaccin, đối tượng tiêm chủng, liều lượng để các cơ sở y tế được cấp phép tiêm ngừa thực hiện và tư vấn cho người tiêu dùng. Hay các nhà nhập khẩu, phân phối vaccin: đây thường là một số công ty, cơ sở kinh doanh nhập vaccin từ nhà sản xuất để phân phối vaccin cho các cơ sở y tế. Trên thực tế ở thành phố Hồ Chí Minh, nhà nhập khẩu, phân phối vaccin gồm một số công ty như: Công ty Cổ phần Dược Mỹ phẩm May; Công ty TNHH Dược phẩm & Trang thiết bị Y tế Hoàng Đức; Công ty Cổ phần Dược phẩm Trung Ương 2; Công ty Cổ phần Vắc xin & Sinh phẩm Nam Hưng Việt; Công ty Cổ phần Dược phẩm Phúc Thiện; nhập khẩu vaccin thuộc danh mục được phép lưu hành tại Việt Nam và tiến hành thủ tục thông quan theo quy định, đồng thời thực hiện việc phân phối vaccin đến các cơ sở y tế có chức năng tiêm chủng. Trong quá trình cung ứng dịch vụ tiêm phòng vaccin, dù là chủ thể trực tiếp hay chủ thể gián tiếp thì vai trò cũng như trách nhiệm của từng chủ thể tham gia đều quan trọng do liên quan mật thiết với nhau từ quá trình sản xuất, phân phối, vận chuyển, bảo quản và đưa dịch vụ đến với người tiêu dùng vaccin. 1.3.2 Điều kiện bảo đảm chất lượng dịch vụ tiêm phòng vaccin Vaccin là loại sản phẩm khi tiêu thụ có ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe của người sử dụng, đem lại hiệu quả to lớn trong công tác phòng, chống các bệnh truyền nhiễm. Tuy nhiên, trong không ít trường hợp, việc sử dụng 13
  19. vaccin không đúng quy chuẩn có thể dẫn tới những rủi ro về sức khỏe, tính mạng không thể khắc phục được cho người được tiêm phòng. Chính vì thế, chất lượng dịch vụ tiêm phòng vaccin thường được người tiêu dùng xem là yếu tố quan trọng và mong muốn nhà nước có sự kiểm soát cần thiết để bảo đảm sự an toàn trong quá trình tiêm chủng. Chính vì vậy, chất lượng dịch vụ tiêm phòng vaccin cần được kiểm soát theo cơ chế chặt chẽ trong đó có sự phân định rõ trách nhiệm của từng chủ thể trong công đoạn cung ứng dịch vụ tiêm chủng vaccin. Cụ thể: - Đối với nhà sản xuất, nhà nhập khẩu, phân phối vaccin: thực hiện việc nghiên cứu, sản xuất, đăng ký chất lượng sản phẩm, thử nghiệm vaccin trước khi đưa vaccin đến các cơ sở y tế, quá trình vận chuyển vaccin từ nhà sản xuất đến cơ sở y tế phải bảo quản trong dây chuyền lạnh (xe lạnh, hòm lạnh, phích vaccin, ) ở nhiệt độ phù hợp của từng loại vaccin, có thiết bị theo dõi nhiệt độ trong suốt quá trình vận chuyển đến các cơ sở y tế. - Đối với các cơ sở y tế đủ điều kiện thực hiện tiêm phòng [5, tr.5]: Hoạt động tiêm phòng vaccin của các cơ sở y tế cần phải đáp ứng được các yêu cầu về an toàn tiêm chủng, bảo đảm đủ các điều kiện về cơ sở vật chất, về trang thiết bị y tế, nhân sự có chuyên ngành y được tập huấn chuyên môn về tiêm chủng, thực hiện các chế độ báo cáo theo quy định, lập kế hoạch bảo đảm việc cung ứng vaccin cho hoạt động tiêm phòng tại cơ sở và được Sở Y tế công bố đủ điều kiện tiêm chủng. Riêng đối với quản lý vaccin trong hoạt động tiêm chủng, các cơ sở y tế cần dự trù nhu cầu vaccin sử dụng trong chương trình Tiêm chủng mở rộng, lập kế hoạch mua sắm hàng năm đối với vaccin dịch vụ gửi Sở Y tế để đảm bảo đủ số lượng và chủng loại vaccin. Vaccin phải được bảo quản đúng nhiệt độ. Việc bảo quản vaccin tại các cơ sở y tế bằng tủ lạnh, phích vaccin hoặc hòm lạnh, thường xuyên kiểm tra 14
  20. và ghi chép lại nhiệt độ bảo quản định kỳ tối thiểu 2 lần/ ngày. Ngoài ra cần có thiết bị theo dõi nhiệt độ của vaccin trong quá trình vận chuyển, bảo quản, sử dụng vaccin; nếu có dấu hiệu bất thường không sử dụng được phải tiêu hủy và có biên bản tiêu hủy. Vaccin cần được bảo quản đúng nhiệt độ theo khuyến cáo của nhà sản xuất vaccin và được bảo quản trong dây chuyền lạnh, phích vaccin hoặc hòm lạnh, thiết bị theo dõi nhiệt độ vaccin tại nơi bảo quản và trong quá trình vận chuyển vaccin, được theo dõi nhiệt độ thường xuyên; đồng thời các cơ sở y tế phải trang bị đầy đủ các thiết bị tiêm phòng, hóa chất các loại để sát khuẩn, các vật tư y tế khác; có hộp thuốc chống sốc, phác đồ chống sốc treo tại nơi khu vực theo dõi và xử trí phản ứng sau tiêm chủng; có dụng cụ chứa chất thải y tế. Cơ sở y tế cần bố trí chỗ ngồi trong khu vực chờ trước khi tiêm chủng, bảo đảm che nắng, mưa và thông thoáng, có khu vực thực hiện tư vấn, khám sàng lọc, khu vực thực hiện tiêm ngừa, khu vực theo dõi và xử trí phản ứng sau tiêm chủng đồng thời bảo đảm các điều kiện vệ sinh, đủ ánh sáng. Ngoài ra, cơ sở y tế phải có tối thiểu 3 nhân viên chuyên ngành y, nhân viên y tế tham gia hoạt động tiêm chủng phải được tập huấn chuyên môn về tiêm chủng. Nhân viên y tế trực tiếp khám sàng lọc, tư vấn, theo dõi, xử trí phản ứng sau tiêm chủng phải có trình độ chuyên môn từ y sĩ trở lên, nhân viên thực hành tiêm chủng phải có trình độ từ điều dưỡng trung cấp trở lên. Giá dịch vụ tiêm chủng [5, tr.8] được dựa trên các yếu tố như: - Chi phí trực tiếp bao gồm các loại chi phí như: giá mua vaccin (các cơ sở y tế khi thực hiện mua vaccin đều phải dựa vào hướng dẫn mua sắm của Sở Y tế trên cơ sở mức giá trần trên website của Cục Quản lý dược và giá kê khai kê khai lại của các công ty nhập khẩu với Cục Quản lý dược), chi phí vận chuyển, bảo quản vaccin, chi phí dịch vụ tiêm phòng vaccin, với chi phí dịch 15