Luận văn Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Dương

pdf 83 trang vuhoa 23/08/2022 12041
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Dương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_bao_ve_quyen_loi_cua_nguoi_tieu_dung_trong_linh_vuc.pdf

Nội dung text: Luận văn Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Dương

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN XUÂN NGÀN BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC VỆ SINH, AN TOÀN THỰC PHẨM THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN XUÂN NGÀN BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC VỆ SINH, AN TOÀN THỰC PHẨM THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH DƯƠNG Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN VĂN CƯƠNG HÀ NỘI – 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan: Luận văn Thạc sĩ luật học: “Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Dương” là công trình nghiên cứu riêng của tôi. Các dữ liệu, thông tin nêu trong luận văn là trung thực; các luận điểm của tác giả khác được trích dẫn nguồn đúng quy định. Toàn bộ nội dung của luận văn là do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Tiến sĩ Luật học Nguyễn Văn Cương. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực, khách quan của các nội dung được trình bày trong luận văn. Tp. Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 02 năm 2017 Tác giả Nguyễn Xuân Ngàn
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC VỆ SINH, AN TOÀN THỰC PHẨM 7 1.1. Khái quát về vệ sinh, an toàn thực phẩm 7 1.2. Nhận diện người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm 11 1.3. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm 16 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC VỆ SINH, AN TOÀN THỰC PHẨM TẠI BÌNH DƯƠNG 20 2.1. Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm 20 2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm tại Bình Dương 47 Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC VỆ SINH, AN TOÀN THỰC PHẨM TẠI TỈNH BÌNH DƯƠNG 61 3.1. Bối cảnh và dự báo tình hình 61 3.2. Kiến nghị 66 3.3. Nhóm các giải pháp 69 KẾT LUẬN 73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
  5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT VSATTP Vệ sinh, an toàn thực phẩm ATTP An toàn thực phẩm NTD Người tiêu dùng HĐND Hội Đồng Nhân Dân QLTT Quản lý thị trường
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Vệ sinh, an toàn thực phẩm (VSATTP) là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt đối với toàn xã hội. Được tiếp cận với thực phẩm an toàn đang trở thành quyền cơ bản đối với mỗi con người. VSATTP không chỉ ảnh hưởng trực tiếp, thường xuyên đến sức khỏe của người tiêu dùng mà còn liên quan chặt chẽ đến năng suất, hiệu quả phát triển kinh tế, thương mại, du lịch và an sinh xã hội. Do đó, việc đảm bảo VSATTP nói chung và bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong lĩnh vực VSATTP nói riêng góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và hội nhập quốc tế. Ở nước ta hiện nay, thực trạng VSATTP đang tạo ra nhiều lo lắng cho người tiêu dùng và an toàn xã hội. Nhiều vụ vi phạm liên tiếp xảy ra trong thời gian gần đây như: măng tươi nhiễm chất vàng ô dùng để nhuộm vải ở Đà Nẵng, ngộ độc bánh mì ở Đà Lạt, nước uống rồng đỏ và C2 bị phát hiện nhiễm độc chì sau khi đã tiêu thụ trên thị trường một thời gian dài, tình trạng sử dụng hóa chất cấm dùng trong nuôi trồng, chế biến nông, thủy sản, thực phẩm, việc sản xuất một số sản phẩm kém chất lượng do quy trình chế biến hoặc do nhiễm độc từ môi trường, trường hợp hơn 100 công nhân Công ty Apparel Far Eastern Việt Nam (sản xuất hàng may mặc tại một KCN thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương) bị ngộ độc Trong các vụ việc vừa nêu, đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp chính là người tiêu dùng. Vì thế, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực VSATTP đang được toàn xã hội quan tâm đòi hỏi nhà nước cần tập trung giải quyết một cách căn cơ nhằm khôi phục lại niềm tin của người tiêu dùng. Với sự quan tâm của Nhà nước, trong thời gian qua nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành nhằm kiểm soát VSATTP, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong lĩnh vực quan trọng này. Trong số đó phải kể tới 1
  7. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 và Luật An toàn thực phẩm năm 2010. Đây là hai đạo Luật then chốt trong việc kiểm soát hành vi buôn bán, kinh doanh thực phẩm bẩn, kém chất lượng, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực VSATTP. Tuy nhiên, sau hơn 6 năm triển khai trên thực tiễn, hai đạo Luật này đã bộc lộ không ít hạn chế và thực tiễn cho thấy cả hai đạo luật này chưa thể trở thành công cụ hiệu quả để bảo vệ tốt nhất, tối ưu nhất quyền lợi của người tiêu dùng thực phẩm. Quyền lợi của người tiêu dùng trong lĩnh vực VSATTP vẫn đang và có nguy cơ bị vi phạm nghiêm trọng. Nhằm góp phần làm sáng tỏ thêm các khía cạnh thực tiễn đã nêu, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Dương” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học chuyên ngành Luật Kinh tế tại Học viện Khoa học xã hội cho khóa học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm là một chủ đề nghiên cứu còn khá mới ở Việt Nam. Mặc dù vậy, liên quan tới chủ đề này cũng đã có một số công trình nghiên cứu khoa học được thực hiện: - Đề tài khoa học cấp Bộ “Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo vệ người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” do ThS. Đinh Thị Mai Phương chủ nhiệm, năm 2008 tại Viện Khoa học pháp lý; - Luận án TS luật học “Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay” do Nguyễn Thị Thư thực hiện, năm 2013 tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam; - Luận án TS luật học “Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân ở Việt Nam hiện nay” do Nguyễn Trọng Điệp thực hiện, năm 2014 tại Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam; 2
  8. Bên cạnh đó, còn có các đề tài nghiên cứu về vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong từng lĩnh vực cụ thể của đời sống: - Luận văn ThS luật học “Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng gia nhập”, do Lò Thùy Linh thực hiện, năm 2010 tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; - Luận văn ThS luật học “Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực kinh doanh siêu thị”, do Nguyễn Thanh Hiếu thực hiện, năm 2015 tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Riêng đối với lĩnh vực an toàn vệ sinh thực phẩm có các công trình nghiên cứu sau: - Luận văn ThS luật học “Pháp luật về kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm trong hợp đồng thương mại ở Việt Nam”, do Đặng Cống Hiến thực hiện, năm 2010 tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; - Luận văn ThS luật học “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn, vệ sinh thực phẩm theo pháp luật nước ta hiện nay”, do Nguyễn Diệu Vũ thực hiện, năm 2016 tại Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam; Mặc dù vậy, cho tới nay, chưa có công trình nghiên cứu nào ở quy mô luận văn thạc sĩ luật học đề cập sâu về khía cạnh lý luận và thực tiễn bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Dương. Đây chính là cơ hội của bản thân học viên khi chọn chủ đề nghiên cứu về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm từ thực tiễn tỉnh Bình Dương làm chủ đề nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu 3
  9. Luận văn được thực hiện nhằm làm sáng tỏ thêm một số khía cạnh lý luận và thực tiễn về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong lĩnh vực VSATTP nói chung và từ thực tiễn tỉnh Bình Dương nói riêng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, tác giả làm rõ những kết quả đạt được cũng như những hạn chế vướng mắc trong pháp luật và thực thi pháp luật an toàn thực phẩm tại tỉnh Bình Dương hiện nay, chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc này. Luận văn cũng đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, biện pháp tổ chức để nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật, tăng cường vai trò của các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan khác có liên quan, các tổ chức xã hội, người dân, cộng đồng trong công tác thi hành pháp luật VSATTP hướng tới bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người dân và doanh nghiệp tại Bình Dương. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Trong phạm vi của một luận văn Thạc sĩ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn tại tỉnh Bình Dương về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm trên cơ sở các quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và Luật An toàn thực phẩm năm 2010, cũng như trong các văn bản pháp luật khác có liên quan. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Bên cạnh việc nghiên cứu các vấn đề lý luận, luận văn còn tập trung nghiên cứu các quy định mang tính đặc thù, đánh giá sự phù hợp trong quá trình áp dụng pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm theo pháp luật Việt Nam và liên hệ với thực tiễn tỉnh Bình Dương. 4
  10. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: + Phương pháp phân tích (được sử dụng chủ yếu, xuyên suốt nhằm làm sáng tỏ những nội dung trong giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài); + Phương pháp tổng hợp (được sử dụng để khái quát hóa các nội dung đã phân tích một cách có hệ thống và súc tích); + Phương pháp thống kê (được sử dụng để trình bày các số liệu có liên quan đến vấn đề nghiên cứu). Tất cả các phương pháp trên được sử dụng kết hợp nhằm làm sáng tỏ nội dung của đề tài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn đã giải quyết được những vấn đề mang tính hệ thống và toàn diện những vấn đề lý luận liên quan đến bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong lĩnh vực đặc biệt đó là vệ sinh, an toàn thực phẩm. Luận văn nêu lên được các luận điểm có ý nghĩa quan trọng làm cơ sở cho những nhận xét và đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trên thực tiễn. Tạo nền tảng để hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Trong quá trình phân tích các quy định của pháp luật, cùng với việc đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi của người tiêu 5
  11. dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm từ thực tiễn tỉnh Bình Dương. Tác giả đã tìm ra được những hạn chế, đồng thời nêu rõ nguyên nhân của những hạn chế đó và đề xuất những kiến nghị hoàn thiện về mặt pháp luật, để tạo hành lang pháp lý hiệu quả trong công cuộc chống đại dịch “thực phẩm bẩn, thực phẩm không an toàn” để bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm. 7. Cơ cấu Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được tác giả trình bày trong 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm. Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm tại Bình Dương. Chương 3. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm tăng cường bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm tại tỉnh Bình Dương. 6
  12. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC VỆ SINH, AN TOÀN THỰC PHẨM 1.1. Khái quát về vệ sinh, an toàn thực phẩm Thực phẩm theo nghĩa thông thường là những sản phẩm được sử dụng để con người ăn hoặc uống. Theo Từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng, thực phẩm là “các thứ dùng làm món ăn như thịt, cá trứng ”. Tuy nhiên, trong lĩnh vực pháp luật, thực phẩm được hiểu theo nghĩa rộng hơn. Theo Luật ATTP năm 2010, “thực phẩm là sản phẩm mà con người ăn, uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua sơ chế, chế biến, bảo quản. Thực phẩm không bao gồm mỹ phẩm, thuốc lá và các chất sử dụng như dược phẩm”.[24] Thực phẩm là một loại tư liệu sinh hoạt tiêu dùng quan trọng hàng đầu, một trong những loại sản phẩm thiết yếu để duy trì sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân con người, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng và mỗi quốc gia. Sức khỏe, sự thịnh vượng của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi cộng đồng và mỗi quốc gia có liên quan mật thiết tới số lượng và chất lượng thực phẩm mà cá nhân, gia đình, cộng đồng hoặc quốc gia đó tiêu thụ. Do thực phẩm là một trong những sản phẩm được sử dụng để đáp ứng nhu cầu thiết yếu cho việc duy trì sức khỏe, tính mạng và sự tồn tại của người tiêu dùng. Bảo đảm an toàn, vệ sinh thực phẩm (hay còn gọi tắt là bảo đảm ATTP) không chỉ là nhu cầu cần thiết, chính đáng của mỗi người tiêu dùng mà còn liên quan trực tiếp đến sự phát triển nòi giống của dân tộc, chính vì vậy, đây là điều rất hệ trọng. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, không ít nhà sản xuất và kinh doanh thực phẩm đã sử dụng biện pháp bảo quản thực phẩm, sử dụng chất kích thích tăng trưởng trong nuôi trồng nguồn nguyên liệu thực phẩm không hợp lý, tiềm ẩn nguy cơ gây hại tới sức khỏe, tính mạng 7
  13. của người tiêu dùng. Điều đó làm cho việc bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm trở nên báo động hơn bao giờ hết. Bảo đảm chất lượng vệ sinh, an toàn thực phẩm giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân, góp phần giảm tỷ lệ mắc bệnh, duy trì và phát triển nòi giống, tăng cường sức lao động, học tập, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, văn hóa xã hội và thể hiện nếp sống văn minh. Mặc dù, cho đến nay đã có khá nhiều tiến bộ về khoa học kỹ thuật trong công tác bảo vệ và bảo đảm an toàn, vệ sinh thực phẩm, cùng sự thực hiện nhiều biện pháp quản lý khác nhau, nhưng tình trạng mất an toàn thực phẩm cùng các bệnh do người tiêu dùng sử dụng thực phẩm kém chất lượng, kém an toàn, vệ sinh thực phẩm vẫn rất đáng báo động. An toàn, vệ sinh thực phẩm hiểu theo nghĩa hẹp là một môn khoa học dùng để mô tả việc xử lý, chế biến, bảo quản và lưu trữ thực phẩm bằng những phương pháp phòng ngừa, phòng chống bệnh tật do thực phẩm gây ra. Vệ sinh, an toàn thực phẩm cũng bao gồm một số thói quen, thao tác trong khâu chế biến cần được thực hiện để tránh các nguy cơ tác động tiêu cực tới sức khỏe con người. Hiểu theo nghĩa rộng thì vệ sinh, an toàn thực phẩm là toàn bộ những vấn đề cần xử lý để thực phẩm đảm bảo sự an toàn cho sức khỏe của người tiêu dùng. Nói tóm lại, vệ sinh, an toàn thực phẩm là “việc bảo đảm để thực phẩm không gây hại đến sức khỏe, tính mạng con người”.[24] Y học đã chứng minh rằng, việc sử dụng thực phẩm không an toàn có thể gây ra ngộ độc thực phẩm hoặc các loại bệnh tật cho con người trong đó có cả những bệnh hiểm nghèo như ung thư, các bệnh mãn tính. Thực tế cho thấy, các hóa chất độc hại như thuốc bảo vệ thực vật (thuốc trừ sâu, trừ bệnh và thuốc trừ cỏ dại ), thuốc kích thích tăng trưởng, kim loại nặng, các vi sinh vật gây bệnh có trong các loại rau quả hoặc các chất kháng sinh, chất tăng 8
  14. trọng có trong thịt, cá sẽ tích lũy dần trong các mô mỡ, tủy sống của con người là tiền đề để phát sinh các loại bệnh nguy hiểm như ung thư, loãng xương, suy giảm trí nhớ và thoái hóa xương khớp. Theo báo cáo của tổ chức y tế thế giới về đánh giá chương trình hành động đảm bảo chất lượng an toàn, vệ sinh thực phẩm trên toàn cầu đã xác định được nguyên nhân gây tử vong hàng đầu cho trẻ em là các bệnh đường tiêu hóa, trong đó phổ biến là ỉa chảy. Đồng thời nguyên nhân trong gây ra các bệnh trên là do thực phẩm nhiễm khuẩn. Ước tính mỗi phút trên thế giới ở những nước đang phát triển có 06 trẻ em chết vì tiêu chảy, trong đó có 04 em chết vì ngộ độc thực phẩm. Mặc dù vậy, không ít người tiêu dùng chưa thực sự quan tâm thỏa đáng đến việc bảo đảm an tòan, vệ sinh thực phẩm, còn khá dễ dãi trong việc chọn lựa, mua các thực phẩm thiết yếu tieu dùng hàng ngày (như thịt, cá, rau ) để mình tiêu dùng hoặc tiêu dùng cho người thân của mình. Điều đáng nói là, kể cả khi người tiêu dùng đã có ý thức quan tâm bảo vệ sức khỏe của bản thân nhưng trong tình hình thực phẩm chưa an toàn đang lưu hành rộng rãi thì việc chọn lựa cho đúng, chuẩn xác thực phẩm an toàn cũng là thách thức rất lớn. Chính vì vậy, việc bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm có tầm quan trọng trong đời sống xã hội, cụ thể: Tầm quan trọng của vệ sinh an toàn thực phẩm đối với sức khỏe, bệnh tật Trước mắt, thực phẩm là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho sự phát triển của cơ thể, đảm bảo sức khỏe con người nhưng đồng thời cũng là nguồn có thể gây bệnh nếu không đảm bảo vệ sinh. Không có thực phẩm nào được coi là có giá trị dinh dưỡng nếu nó không đảm bảo vệ sinh. Về lâu dài thực phẩm không những có tác động thường xuyên đối với sức khỏe mỗi con người mà còn ảnh hưởng lâu dài đến nòi giống của dân tộc. Sử dụng các thực phẩm không đảm bảo vệ sinh trước mắt có thể bị ngộ độc 9
  15. cấp tính với các triệu chứng ồ ạt, dễ nhận thấy, nhưng vấn đề nguy hiểm hơn nữa là sự tích lũy dần các chất độc hại ở một số cơ quan trong cơ thể sau một thời gian mới phát bệnh hoặc có thể gây các dị tật, dị dạng cho thế hệ mai sau. Những ảnh hưởng tới sức khỏe đó phụ thuộc vào các tác nhân gây bệnh, những trẻ suy dinh dưỡng, người già, người ốm càng nhạy cảm với các bệnh do thực phẩm không an toàn nên càng có nguy cơ suy dinh dưỡng và bệnh tật nhiều hơn. Vệ sinh an toàn thực phẩm tác động đến kinh tế và xã hội Đối với nước ta cũng như nhiều nước đang phát triển, lương thực, thực phẩm là một loại sản phẩm chiến lược, ngoài ý nghĩa kinh tế còn có ý nghĩa chính trị, xã hội rất quan trọng. Vệ sinh, an toàn thực phẩm nhằm tăng lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Để cạnh tranh trên thị trường quốc tế, thực phẩm không những cần được sản xuất, chế biến, bảo quản phòng tránh ô nhiễm các loại vi sinh vật mà còn không được chứa các chất hóa học tổng hợp hay tự nhiên vượt quá mức quy định cho phép của tiêu chuẩn quốc tế hoặc quốc gia, gây ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng. Những thiệt hại khi không đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm gây nên nhiều hậu quả khác nhau, từ bệnh cấp tính, mạn tính đến tử vong. Thiệt hại chính do các bệnh gây ra từ thực phẩm đối với cá nhân là chi phí khám bệnh, phục hồi sức khỏe, chi phí do phải chăm sóc người bệnh, sự mất thu nhập do phải nghỉ làm Đối với nhà sản xuất, đó là những chi phí do phải thu hồi, lưu giữ sản phẩm, hủy hoặc loại bỏ sản phẩm, những thiệt hại do mất lợi nhuận do thông tin quảng cáo và thiệt hại lớn nhất là mất lòng tin của người tiêu dùng. Ngoài ra còn có các thiệt hại khác như phải điều tra, khảo sát, phân tích, kiểm tra độc hại, giải quyết hậu quả 10
  16. Xuất phát từ tầm quan trọng của việc bảo đảm an toàn, vệ sinh thực phẩm trong sự phát triển kinh tế và xã hội, bảo vệ môi trường sống của các nước đã và đang phát triển, cũng như nước ta. Mục tiêu đầu tiên của vệ sinh, an toàn thực phẩm là đảm bảo cho người ăn tránh bị ngộ độc do ăn phải thức ăn bị ô nhiễm hoặc có chất độc; thực phẩm phải đảm bảo lành và sạch. 1.2. Nhận diện người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm 1.2.1. Khái niệm người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh,an toàn thực phẩm Hiện nay có rất nhiều quan điểm về người tiêu dùng, tùy thuộc vào thể chế chính trị, mức độ phát triển của kinh tế, nền văn hóa, các yếu tố xã hội mà mỗi nước có cách nhìn khác nhau về người tiêu dùng. Ở Ấn Độ, Luật bảo vệ người tiêu dùng được thực thi vào năm 1986 nhằm hệ thống hóa các thủ tục pháp lý cùng luật pháp liên quan đến người tiêu dùng và được xem là một trong những thành tựu nổi bật trong quá trình hệ thống hóa pháp luật của Ấn Độ. Mục tiêu của luật này là bảo vệ tốt hơn các quyền lợi của người tiêu dùng, bảo vệ người tiêu dùng khỏi các hành vi gây thiệt hại như: hàng hóa và dịch vụ khuyết tật, các hành vi thương mại không lành mạnh cũng như các dịch vụ lừa dối hoặc không chính đáng. Luật bảo vệ người tiêu dùng năm 1986 đã định nghĩa người tiêu dùng theo nhiều phương cách. Trước hết, người tiêu dùng hàng hóa là người mua bất kỳ loại hàng hóa nào vì một mục đích nhất định, bao gồm cả người sử dụng không có sự cho phép của người mua, được gọi là một người tiêu dùng hàng hóa, nhưng không bao gồm người bán lại hàng hóa hoặc sử dụng hàng hóa vì các mục đích thương mại. Trong lĩnh vực dịch vụ người tiêu dùng là một người sử dụng dịch vụ vì một mục đích nhất định hoặc một người được hưởng lợi của dịch vụ đó, nhưng phải hưởng lợi của dịch vụ đó với sự cho phép của người mà thực sự mua dịch vụ đó. 11
  17. Ở Pháp, Bộ luật bảo vệ người tiêu dùng được ban hành vào năm 1993, đây là kết quả của sự pháp điển hóa hơn 600 văn bản luật, Nghị định của Pháp, các văn bản pháp luật của Liên minh Châu Âu và các Điều ước Quốc tế. Bộ luật này được xem là một hình mẫu khá điển hình trong công tác bảo vệ người tiêu dùng ở các nước theo hệ thống CivilLaw. Mặc dù, Bộ luật giải thích cụ thể nhưng trong khoa học pháp lý của Pháp, người tiêu dùng được hiểu là các cá nhân trực tiếp mua hàng hóa, thụ hưởng các dịch vụ và trực tiếp tiêu thụ hàng hóa đó. Theo quan điểm của pháp luật Việt Nam hiện hành, không phải tất cả các đối tượng đều là người tiêu dùng và mọi hành vi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ đều là hành vi tiêu dùng. Căn cứ vào Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, người tiêu dùng là người mua, người sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt cá nhân, gia đình, tổ chức.[25] Theo đó, người tiêu dùng có thể là người mua và sử dụng hàng hóa, dịch vụ đã mua cho chính bản thân mình, người mua hàng hóa, dịch vụ cho người khác, cho gia đình hoặc cho tổ chức sử dụng, cá nhân, gia đình, tổ chức sử dụng hàng hóa do người khác mua hoặc do được tặng cho. Căn cứ vào khái niệm trên những người mua hàng hóa, dịch vụ không vì mục đích tiêu dùng mà vì mục đích phục vụ cho các hoạt động đầu tư, sản xuất, tiêu thụ hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm thu lợi nhuận đều không được xem là người tiêu dùng. Như vậy, người tiêu dùng hay người tiêu thụ là một từ nghĩa rộng dùng để chỉ các cá nhân hoặc hộ gia đình, các tổ chức dùng hàng hóa hoặc dịch vụ sản xuất trong nền kinh tế. Khái niệm người tiêu dùng được dùng trong nhiều văn cảnh khác nhau vì thế cách dùng khái niệm này có thể rất đa dạng. Người tiêu dùng là người có nhu cầu, có khả năng mua sắm các sản phẩm dịch vụ trên thị trường phục vụ cho cuộc sống. Người tiêu dùng có thể là cá nhân 12
  18. hoặc hộ gia đình, tổ chức thõa mãn điều kiện mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt, học tập, nghiên cứu, vui chơi, giải trí và các mục đích phi lợi nhuận khác. Từ phân tích trên, chúng ta có thể hiểu người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm là cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức mua sắm hoặc sử dụng các sản phẩm là thực phẩm để ăn hoặc uống ở dạng tươi sống hoặc đã qua chế biến, bảo quản cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt cá nhân, gia đình hoặc tổ chức. Người mua thực phẩm để kinh doanh, bán lại sẽ không được xem là người tiêu dùng. 1.2.2. Đặc điểm người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm Cùng một loại thực phẩm, do tác động của chương trình quảng cáo và khuyến mại, người tiêu dùng khác nhau có thể có những nhận thức, thái độ và hành động khác nhau. Lý do nằm ở những đặc điểm nội tại hay các yếu tố ảnh hưởng bên trong của mỗi người tiêu dùng. Những đặc điểm này gồm: các đặc điểm văn hóa (văn hóa quốc gia, văn hóa địa phương), xã hội (vị trí, vai trò trong gia đình và trong xã hội), cá nhân (tuổi tác, vòng đời, nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tế, phong cách sống) và tâm lý (động cơ, nhận thức, niềm tin, thái độ). Người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm tại Việt Nam nói chung thường có những đặc điểm sau: Thứ nhất, ưa dùng thực phẩm là hàng ngoại (sính ngoại): Thích xài thực phẩm ngoại là tâm lý phổ biến của một bộ phận người tiêu dùng nhằm tạo cho mình lối sống và phong cách hưởng thụ trội hơn người khác. Trong thời gian vừa qua, không ít thông tin cho thấy không phải cứ thực phẩm ngoại là bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, chẳng hạn: Đoàn thanh tra liên ngành thực phẩm TP. Hà Nội phát hiện tại một số siêu thị có rất nhiều thực phẩm ngoại bày bán mà không có nguồn gốc, hạn sử dụng: củ cải, sợi củ từ nâu, đậu 13
  19. phụ, mì tươi. Rồi thì chân gà, thịt bò nhập từ Úc, từ châu Âu về hết date; chân giò lợn nhập khẩu bị bốc mùi liên tiếp bị phát hiện ở Hà Nội, TP. HCM với số lượng lớn. Mặc dù vậy, với một bộ phận người tiêu dùng có gia thế giàu có vẫn tìm thực phẩm ngoại, đồ ngoại để sử dụng. Một sự khác biệt lớn giữa người tiêu dùng Việt Nam và người tiêu dùng Châu Á là nếu như hơn một nửa người tiêu dùng Châu Á ưa chuộng các thương hiệu trong nước, thì tại Việt Nam có tới hơn 77% người tiêu dùng sính hàng ngoại. Những tiểu xảo của công nghiệp thực phẩm đã đánh lừa người tiêu dùng khi sản phẩm mà người tiêu dùng chọn do được cho là hàng ngoại có uy tín, có thương hiệu, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, thì cũng không thể tránh khỏi những việc mà nhiều người tiêu dùng không biết như: Cam Mỹ có thể được nhuộm màu; dầu Ô liu có thể được pha trộn với các loại dầu rẻ tiền khác hay gà nhập được tẩy trùng bằng thuốc tẩy Javen; thịt cá hồi nuôi được nhuộm hồng bằng hoá chất Thứ hai, đặc điểm dễ nhận thấy kế đến là “tính” dễ thay đổi quan điểm tiêu dùng: giữa thực phẩm đẹp mắt và thực phẩm kém mã hơn, chúng ta thường có thói quen chọn thực phẩm đẹp mắt. Trong khi những người tiêu dùng ở các quốc gia Châu Á khác cho rằng họ khá chung thủy với những nhãn hiệu đã sử dụng, những thực phẩm nội địa theo mùa, thì Eye on Asia tiết lộ rằng, phong cách tiêu dùng thực phẩm của người Việt Nam dễ thay đổi, NTD Việt Nam thường lựa chọn những thực phẩm bắt mắt, tươi sáng không quan tâm nhiều tới nguồn gốc xuất xứ và giá trị sử dụng đích thực của từng loại thực phẩm mà thường chạy theo xu hướng. Chính vì thế, để tiêu thụ thực phẩm tốt ở Việt Nam, những nhà cung cấp thực phẩm luôn đi tìm những mẫu mã đẹp hình thức, thậm chí bỏ qua chất lượng để đánh vào thị hiếu “ưa vẻ bề ngoài” của người tiêu dùng thực phẩm trên thị trường Việt Nam. 14
  20. Thứ ba, người tiêu dùng thực phẩm ở Việt Nam, cũng giống như NTD ở các quốc gia khác, khi tham gia mua sắm, sử dụng hàng hóa là thực phẩm thường ở vị trí yếu thế so với người kinh doanh thực phẩm. Những yếu thế cơ bản mà NTD hay gặp phải bao gồm: - Yếu thế trong việc tiếp cận, xử lý và hiểu các thông tin về thực phẩm trong quan hệ mua bán trao đổi. NTD do không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, cung ứng thực phẩm, cũng như do những hạn chế trong hiểu biết về chuyên môn kỹ thuật nên thường không hiểu đầy đủ về tính năng, công dụng, chất lượng, các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình tiêu thụ thực phẩm. Các vụ ngộ độc rượu do tiêu thụ nhầm rượu giả (sử dụng cồn công nghiệp pha với nước) được báo chí phản ánh gần đây là một trong những minh chứng chứng minh thực tế này. - Yếu thế về khả năng đàm phán, thiết lập hợp đồng, giao dịch khi quan hệ với các thương nhân trên thị trường. Nhiều doanh nghiệp kinh doanh thực phẩm, do có nguồn lực lớn nên có thể đầu tư để chuyên nghiệp hóa đội ngũ nhân viên, cán bộ, tăng cường khả năng đàm phán, thiết lập hợp đồng, giao dịch, làm cho họ trở nên có ưu thế nổi trội so với người tiêu dùng. - Yếu thế về khả năng gánh chịu rủi ro trong quá trình tiêu dùng thực phẩm. Khi xảy ra các rủi ro vì tiêu dùng thực phẩm không an toàn, người tiêu dùng có thể bị ảnh hưởng đến sức khỏe, thậm chí là tính mạng. Chi phí để khắc phục những rủi ro này thường rất lớn, đôi khi vượt ngoài khả năng chịu đựng của mỗi người tiêu dùng. Trong khi đó, cùng tình huống tương tự, khả năng gánh chịu rủi ro của nhà sản xuất, kinh doanh thực phẩm sẽ ít hơn. - Yếu thế về khả năng tiếp cận cơ quan công quyền để bảo vệ lợi ích khi có tranh chấp, rủi ro xảy ra. Doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thực phẩm thường có tiềm lực để thuê các luật sư giỏi, thiết lập quan hệ tốt với các cơ quan công quyền. Chính vì thế, khi có tranh chấp, rủi ro xảy ra, họ thường 15
  21. có ưu thế so với người tiêu dùng trong việc tiếp cận với cơ quan công quyền để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. 1.3. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm 1.3.1. Khái niệm quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực vệ sinh, an toàn thực phẩm Người tiêu dùng luôn là một bộ phận quan trọng nhất cấu thành nên nền kinh tế thị trường. Vì vậy, từ rất sớm trên thế giới đã hình thành các hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng nhất là từ những năm 1960 trở lại đây. Hiện nay, có 260 tổ chức, hiệp hội người tiêu dùng ở 120 quốc gia và khu vực trên thế giới. Việt Nam có 40 hội bảo vệ người tiêu dùng ở các tỉnh cùng một hội bảo vệ người tiêu dùng ở cấp trung ương. VINASTAS là hội thành viên của hội bảo vệ người tiêu dùng thế giới CI. CI hoạt động theo phong trào hiến chương về hoạt động người tiêu dùng nhằm truyền bá sự hiểu biết có phê phán, hành động, trách nhiệm xã hội và đoàn kết sao cho người tiêu dùng thế giới phát huy được vai trò của họ, đạt tới cuộc sống công bằng văn minh. Ngày 05/9/1985 Đại hội đồng Liên hợp Quốc thông qua nghị quyết 39/948 quy định 8 quyền của người tiêu dùng: (i) quyền được an toàn, (ii) quyền được có thông tin, (iii) quyền được lựa chọn, (iv) quyền được lắng nghe, (v) quyền được khiếu nại và bồi thường, (vi) quyền được giáo dục, đào tạo về tiêu dùng, (vii) quyền được thõa mãn nhu cầu cơ bản, (viii) quyền được sống trong môi trường sống lành mạnh và bền vững.[8] Như vậy, có thể hiểu rằng quyền lợi của người tiêu dùng chính là các quyền năng cơ bản cùng các lợi ích vật chất (tính mạng, tài sản, sức khỏe ) của người tiêu dùng khi họ tham gia vào quan hệ mua bán và có thể kéo dài trong suốt quá trình sử dụng sản phẩm, dịch vụ. 16