Luận văn Bảo vệ bên yếu thế trong pháp luật hợp đồng

pdf 119 trang vuhoa 24/08/2022 8960
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Bảo vệ bên yếu thế trong pháp luật hợp đồng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_bao_ve_ben_yeu_the_trong_phap_luat_hop_dong.pdf

Nội dung text: Luận văn Bảo vệ bên yếu thế trong pháp luật hợp đồng

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH NGUYỄN LÂM GIANG BẢO VỆ BÊN YẾU THẾ TRONG PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH NGUYỄN LÂM GIANG BẢO VỆ BÊN YẾU THẾ TRONG PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380107 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM DUY NGHĨA TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi tên là Nguyễn Lâm Giang, mã số học viên: 7701240658A, là học viên lớp Cao học Luật LLM 01, Khóa chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “BẢO VỆ BÊN YẾU THẾ TRONG PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG” (Sau đây gọi tắt là “Luận Văn”). Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận Văn này là kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học. Trong Luận Văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận Văn là hoàn toàn khách quan và trung thực. Học viên thực hiện Nguyễn Lâm Giang
  4. MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TÓM TẮT ĐỀ TÀI PHẦN MỞ ĐẦU 1 Chương 1. TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG CÓ MỘT BÊN YẾU THẾ 6 1.1 Những vấn đề cơ bản về hợp đồng có một bên yếu thế 6 1.1.1 Định nghĩa về hợp đồng 6 1.1.2 Định nghĩa về hợp đồng có một bên yếu thế 8 1.2 Những vấn đề lý luận về hợp đồng có một bên yếu thế 11 1.2.1 Cơ sở lý luận của hợp đồng có một bên yếu thế: Học thuyết giao dịch không cân bằng 11 1.2.2 Phân loại các giao dịch bất công thái quá 14 1.2.3 Vấn đề hiệu lực của hợp đồng có một bên yếu thế 16 Kết luận Chương 1 20 Chương 2. PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CÓ MỘT BÊN YẾU THẾ TRÊN THẾ GIỚI 21 2.1 Khối Thịnh Vượng Chung (British Commonweath) 21 2.2 Hoa Kỳ 28 2.3 Pháp 31 2.4 Trung Quốc 35 2.5 Một số pháp luật quốc tế khác 36 Kết luận Chương 2 37 Chương 3. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CÓ MỘT BÊN YẾU THẾ TẠI VIỆT NAM 39 3.1 Một số quy định pháp luật và thực trạng về hợp đồng có một bên yếu thế tại Việt Nam 39
  5. 3.1.1 Hợp đồng thương mại điện tử 43 3.1.2 Hợp đồng theo mẫu 50 3.1.3 Một số hợp đồng có một bên yếu thế khác 57 3.2 Giải pháp cho Việt Nam 59 3.2.1 Ghi nhận cụ thể về hợp đồng có một bên yếu thế, giao dịch bất công thái quá 59 3.2.2 Quy định cụ thể về thẩm quyền tài quán đối với hợp đồng có một bên yếu thế tại Việt Nam 61 3.2.3 Một số vấn đề khác cần lưu ý trong pháp luật về hợp đồng có một bên yếu thế tại Việt Nam 67 Kết luận Chương 3 69 KẾT LUẬN 70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT PHẦN PHỤ LỤC ĐÍNH KÈM
  6. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLDS Bộ luật Dân sự BVQLNTD Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng SGDTMĐT Sàn giao dịch thương mại điện tử TAND Tòa án nhân dân TMĐT Thương mại điện tử UCC Uniform Commercial Code (Hoa Kỳ) TP.HCM Thành phố Hồ Chí Minh
  7. TÓM TẮT ĐỀ TÀI Luận văn thảo luận về các vấn đề liên quan đến bên yếu thế trong hợp đồng – vốn là một chủ thể đặc biệt cần sự bảo vệ của pháp luật cũng như các cơ quan tài phán. Trong một nền kinh tế thị trường ngày một sôi động, các quan hệ xã hội ngày càng mở rộng, đây chính là tiền đề cho việc gia tăng các giao dịch, hợp đồng trong đời sống. Mặt khác, quan hệ hợp đồng ngày nay không chỉ gói gọn trong “thuận mua vừa bán” mà trở nên phức tạp hơn với sự xuất hiện của một quan hệ hợp đồng mới: hợp đồng có một bên yếu thế, vốn đang gây ra nhiều tranh chấp trong thực tiễn hiện nay. Tuy nhiên, tại Việt Nam, bên yếu thế trong hợp đồng vẫn chưa được bảo vệ thực sự dù pháp luật Việt Nam đã tồn tại hệ thống chế định bảo vệ người tiêu dùng như quy định về thương mại điện tử, bảo vệ người tiêu dùng, hợp đồng theo mẫu Lập pháp quốc tế đã có những bước phát triển dài về vấn đề bảo vệ bên yếu thế, mà nổi bật là các nước theo hệ thống pháp luật Common Law – nơi khai sinh ra học thuyết nền tảng: Học thuyết về giao dịch không công bằng (Unconscionability Doctrine). Do đó, nghiên cứu pháp luật các quốc gia tiêu biểu như Anh Quốc, Úc, Hoa Kỳ cũng như một số nước theo hệ thống pháp luật Civil Law như Pháp, Trung Quốc, cùng với sự so sánh, sẽ tìm ra các bài học kinh nghiệm cho lập pháp Việt Nam. Để áp dụng các bài học lập pháp quốc tế, cần có sự xem xét kỹ lưỡng các vấn đề xã hội thực sự của các hợp đồng có một bên yếu thế đang nổi cộm như hợp đồng theo mẫu, hợp đồng thương mại điện tử, hợp đồng giả cách, hợp đồng sử dụng dịch vụ viễn thông thông qua những tranh chấp, vụ án thực tế, đối chiếu với thực trạng pháp luật Việt Nam để tìm ra các giải pháp pháp lý thích hợp để đảm bảo vai trò của pháp luật là đảm bảo công bằng xã hội. Từ khóa: Bảo vệ bên yếu thế; Giao dịch bất công thái quá; Giao dịch không công bằng; Người tiêu dùng; Thương mại điện tử; Hợp đồng tiêu dùng; Hợp đồng theo mẫu.
  8. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Mỗi ngày chúng ta tham gia vào rất nhiều hợp đồng, nhưng liệu mỗi cá nhân có nhận ra vị trí yếu thế của mình trong một số giao dịch dân sự hàng ngày. Hợp đồng có một bên yếu thế không còn là một khái niệm xa lạ mà xuất hiện phổ biến trong đời sống, từ sử dụng điện, nước, dịch vụ viễn thông, hợp đồng bảo hiểm đến các hoạt động thương mại điện tử, đều là các hợp đồng mà chính chúng ta là bên yếu thế. Khi xã hội loài người phát triển không ngừng, quan hệ hợp đồng trở nên phát triển, đa dạng, linh hoạt nhưng cũng chứa đựng thêm nhiều rủi ro cho các bên. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, người nắm giữ sức mạnh tài chính và thông tin thường có vị thế vượt trội trong thương lượng, thỏa thuận và thực hiện hợp đồng. Thậm chí khi xảy ra tranh chấp, khả năng tiếp cận hệ thống tư pháp và yêu cầu quyền lợi chính đáng của nhóm này cũng chiếm ưu thế rất cao. Từ đó làm xuất hiện bên mạnh thế và đối trọng với nó là bên yếu thế cùng tồn tại trong một quan hệ hợp đồng. Pháp luật hợp đồng ngoài việc bảo vệ sự tôn nghiêm của hợp đồng cũng cần bảo vệ các bên, đảm bảo cán cân lợi ích của giao dịch không chênh lệch quá lớn. Do đó pháp luật hợp đồng cần có các biện pháp bảo vệ bên yếu thế trong các giao dịch không công bằng bằng những can thiệp phù hợp nhằm tạo lập lại sự cân bằng cho cán cân lợi ích giữa các bên, đồng thời vẫn giữ được nguyên tắc cốt lõi của hợp đồng chính là sự thỏa thuận của các bên tham gia. Làm thế nào để pháp luật Việt Nam – nơi vẫn chưa trực tiếp ghi nhận cũng chưa nhìn nhận đúng mức về vấn đề hợp đồng có một bên yếu thế – có thể đảm bảo vai trò trên của mình? Vì các lý do trên, người viết đã chọn đề tài “Bảo vệ bên yếu thế trong pháp luật hợp đồng” để thực hiện nghiên cứu. 2. Câu hỏi nghiên cứu Trong phạm vi đề tài này, người viết đặt ra những câu hỏi nghiên cứu như sau: Thứ nhất, như thế nào là một hợp đồng có một bên yếu thế? Cơ sở lý luận cho chế định hợp đồng này là gì và có nguồn gốc như thế nào? Thứ hai, hợp đồng có một bên yếu thế có hiệu lực pháp luật hay không?
  9. 2 Thứ ba, pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam hiện nay quy định như thế nào để bảo vệ bên yếu thế trong hợp đồng? Thứ tư, những giải pháp, cách thức bảo vệ bên yếu thế trong quan hệ hợp đồng một cách hiệu quả? 3. Tình hình nghiên cứu 3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước Việc nghiên cứu về hợp đồng có một bên yếu thế một cách toàn diện cũng như các vấn đề lý luận cốt lõi của vấn đề này vẫn chưa được quan tâm, có chăng là những nghiên cứu xoay quanh các vấn đề hợp đồng theo mẫu, hợp đồng thương mại điện tử dưới góc độ bảo vệ bên yếu thế như bài viết của Nguyễn Như Phát “Điều kiện thương mại chung và nguyên tắc tự do khế ước”, bài viết của Nguyễn Thị Hằng Nga “Bảo vệ bên yếu thế trước các điều kiện thương mại chung bất công bằng – Cách giải quyết của pháp luật một số quốc gia trên thế giới”. Đặc biệt, tại Kỷ yếu Hội thảo khoa học tháng 6/2013 về “Bảo vệ quyền lợi của bên yếu thế” của Khoa Luật dân sự - Đại học Luật TP.HCM, Kỷ yếu nêu ra việc bảo vệ quyền lợi của bên yếu thế trong rất nhiều lĩnh vực, chẳng hạn như bài tham luận: “Bảo vệ bên yếu thế về thông tin trong pháp luật hợp đồng” của Đỗ Văn Đại, “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên yếu thế trong hợp đồng dân sự theo mẫu” của Chế Mỹ Phương Đài, “Hợp đồng mẫu – Điều kiện giao dịch chung nhìn từ góc độ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” của Lê Minh Hùng, “Một số bất cập trong hợp đồng vay tài sản và hướng hoàn thiện để bảo vệ bên vay triệt để hơn” của TS. Nguyễn Xuân Quang ; hội thảo thể hiện sự quan tâm của giới học thuật về vấn đề hợp đồng có một bên yếu thế, tuy nhiên vẫn chưa đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề lý thuyết nền tảng cũng như chưa có những đánh giá thực tế bằng những tranh chấp, bản án cụ thể về vấn đề. 3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước Vấn đề bảo vệ bên yếu thế trong pháp luật hợp đồng ở ngoài nước được quan tâm và khai thác từ nhiều năm về trước. Các học giả ở các nước trên thế giới chủ yếu phân tích vấn đề này bắt nguồn từ Học thuyết về giao dịch không công bằng (Unconscionability Doctrine), sau đó là phát triển đến phân tích giao dịch không công bằng (unconscionable bargains) – là một vấn đề nghiên cứu rất quen thuộc trong các trường luật tại quốc gia Common Law, bằng chứng là tác phẩm quen thuộc The law of contract 5th Edition của các
  10. 3 tác giả Janet O’Sullivan và Jonathan Hilliard đã dành hẳn một chương cho vấn đề này. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu luật học khác trên khắp thế giới cũng có những nghiên cứu về vấn đề hợp đồng có một bên yếu thế, hay còn gọi là giao dịch không công bằng tại pháp luật tại quốc gia mình như The Unconscionability Doctrine in U.S. Contract Law của Per Gustafsson, Unconscionability in Australian Law: Development and Policy Issues của Mark Sneddon, đặc biệt là tác phẩm Unconscionable Contracts: A Comparative Study of the Approaches in England, France, Germany, and the United States của các tác giả A.H. Angelo và E.P. Ellinger có sự so sánh sự tương quan giữa các hệ thống pháp luật về vấn đề này. Ngoài ra, còn có một số tác phẩm phân tích một số khía cạnh khác của hợp đồng có một bên yếu thế như bài viết A Contractarian Approach to Unconscionability của Horacio Spector, Two Different Kinds Of Procedural And Substantive Unconscionability của Richard Craswell Những nghiên cứu này là tài liệu vô cùng quan trọng giúp tác giả có thêm thông tin mang tính định hướng để người viết có thể nhìn nhận về vấn đề giao dịch không công bằng tại các hệ thống pháp luật các quốc gia khác để có cách nghiên cứu, tìm tòi và lập luận cho riêng mình, hướng đến chắt lọc những kinh nghiệm lập pháp áp dụng vào tình hình thực tế tại Việt Nam. 4. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Mục đích nghiên cứu Người viết tiến hành nghiên cứu với các mục đích: Một là, chứng minh sự cần thiết của việc nhìn nhận và ghi nhận vấn đề hợp đồng có một bên yếu thế trong hệ thống pháp luật hợp đồng Việt Nam; và hai là, nêu lên những giải pháp cụ thể và nhìn nhận những vấn đề kèm theo khi nhà làm luật thực sự muốn ghi nhận quy định pháp luật điều chỉnh về hợp đồng có một bên yếu thế tại Việt Nam. 4.2. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận Văn này là các vấn đề cơ bản về hợp đồng có một bên yếu thế như định nghĩa, nội hàm, cơ sở lý luận, phân loại, vấn đề hiệu lực hợp đồng, thực trạng và quy định pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về hợp đồng có một bên yếu thế. 4.3. Phạm vi nghiên cứu
  11. 4 Vấn đề bảo vệ bên yếu thế trong pháp luật hợp đồng là một vấn đề rất rộng, đồng thời pháp luật liên quan đến bảo vệ bên yếu thế hợp đồng không được quy định tập trung ở một quy định cụ thể nào mà được quy định rải rác ở các luật chuyên ngành. Bên yếu thế trong xã hội hiện này hiện hữu ở rất nhiều khía cạnh, như người không có đầy đủ năng lực hành vi, người bị nhược điểm về thể chất, tinh thần, người lao động trong một số quan hệ lao động đặc biệt hay bên yếu thế trong pháp luật hợp đồng. Đề tài này được giới hạn trong việc chủ yếu phân tích các vấn đề bảo vệ bên yếu thế là một chủ thể trong hợp đồng. Mặt khác, hợp đồng có một bên yếu thế có mặt ở nhiều lĩnh vực, như bảo hiểm, tín dụng, tiêu dùng , hay như hợp đồng mua quyền nghỉ dưỡng là một chế định rất mới, tuy nhiên, người viết chỉ nêu một vài hợp đồng có một bên yếu thế tiêu biểu, mang tính đại diện để người đọc có thể phần nào nắm được thực trạng về hợp đồng có một bên yếu thế tại Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, đánh giá kết hợp với phương pháp phân tích luật viết Xuyên suốt Luận Văn, người viết thực hiện tổng hợp, thu thập các thông tin, bài viết, tài liệu; phân tích, đưa ra đánh giá của bản thân về tài liệu và các quy định pháp luật về bảo vệ bên yếu thế trong các quan hệ hợp đồng, kết hợp những vấn đề thực tiễn để rút ra các hạn chế cũng như giải pháp khắc phục cần thiết. - Phương pháp nghiên cứu so sánh luật Người viết đã sưu tầm và phân tích so sánh cách quy định, cách giải quyết cùng một vấn đề giữa Việt Nam và các quốc gia khác trên thế giới, qua đó, rút ra được những phương án ưu việt và hiệu quả nhất cho vấn đề đặt ra. 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Nghiên cứu đề cập tới vấn đề hợp đồng có một bên yếu thế với sự phân tích sâu vào các vấn đề mang tính lý luận nhằm tạo một cơ sở lý luận hợp lý, tạo nền tảng cho việc phát triển cơ sở pháp lý, cũng như là một nền móng cho các nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này. Mặt khác, việc phân tích và đánh giá các quy định pháp luật, án lệ và thực tế về vấn đề hợp đồng có một bên yếu thế tại các quốc gia trên thế giới nhằm tạo một góc nhìn rộng hơn ra thế giới cho người đọc, để thấy rằng vấn đề về hợp đồng có một bên yếu thế và giá trị áp
  12. 5 dụng của nó vốn đã được quan tâm và phát triển từ rất lâu, từ đó có một nhìn nhận về thực trạng Việt Nam về các hợp đồng, giao dịch bất công mà bên yếu thế vẫn còn chịu thiệt thòi, tìm ra nguồn gốc của những bất công đó mà có những suy nghĩ, những giải pháp pháp lý thiết thực cho vấn đề này. 7. Cấu trúc của Luận Văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận Văn bao gồm ba phần chính sau: Chương 1: Tổng quan về hợp đồng có một bên yếu thế Chương 2: Pháp luật về hợp đồng có một bên yếu thế trên thế giới Chương 3: Thực trạng và giải pháp về pháp luật về hợp đồng có một bên yếu thế tại Việt Nam
  13. 6 Chương 1. TỔNG QUAN VỀ HỢP ĐỒNG CÓ MỘT BÊN YẾU THẾ Để có góc nhìn học thuật rõ ràng hơn về một vấn đề còn khá mơ hồ trong nghiên cứu luật học tại Việt Nam, người viết xin bắt đầu từ những định nghĩa, đặc trưng và những vấn đề lý luận cơ bản nhất liên quan đến hợp đồng có một bên yếu thế. 1.1 Những vấn đề cơ bản về hợp đồng có một bên yếu thế 1.1.1 Định nghĩa về hợp đồng Kiến thức về luật hợp đồng luôn rộng mở, tùy thuộc vào phương hướng nghiên cứu của từng học giả mà được phát triển theo các chủ đề khác nhau, nhưng tồn tại một mẫu số chung là các bài nghiên cứu, bài viết về hợp đồng đều được bắt đầu bằng câu hỏi: Hợp đồng là gì? Đối với một người đọc khắt khe, người viết đang lặp lại việc trả lời câu hỏi mà bất cứ tác giả nghiên cứu về luật hợp đồng nào cũng đã giải quyết trước đây. Tuy nhiên, người viết cho rằng, muốn giải quyết vấn đề nào đó, đều phải bắt đầu từ cội nguồn của vấn đề đó. Chính vì vậy, khái niệm rất quen thuộc: “hợp đồng” sẽ được làm rõ tại phần đầu tiên của nghiên cứu này. Theo một quan niệm rất phổ biến trong xã hội vẫn tồn tại cho đến ngày nay, một văn bản được coi là hợp đồng khi nó mang tiêu đề “Hợp Đồng”, bắt buộc phải có chữ ký các bên, có giấy trắng, có mực đen, thì khi đó văn bản đó mới được xem là một hợp đồng – và cùng lúc, văn bản đó mang một giá trị pháp lý nhất định. Tuy vậy, nội hàm của khái niệm hợp đồng lại đơn giản hơn và thông dụng hơn rất nhiều. Trong thực tiễn áp dụng, một văn bản với tên “thỏa thuận”, hay “biên bản”, đến “cam kết” đều chính là những hợp đồng. Ngay cả việc mỗi sáng chúng ta mua một cốc cà phê nhỏ, hay nhấp chuột mua một cuốn sách trên các trang thương mại điện tử, chúng ta đã bước vào quan hệ hợp đồng dù không hề tồn tại một tờ giấy hay chữ ký nào. Theo người viết, hợp đồng cơ bản là một thỏa thuận. Dưới góc độ pháp luật, do tính chất phổ biến của hợp đồng trong đời sống, chế định này được hầu hết pháp luật các quốc gia ghi nhận từ rất lâu. Châu Âu là nơi có bề dày lịch sử lập pháp về hợp đồng, được ghi nhận đầu tiên tại Luật La Mã cổ đại1. Đến thế kỷ thứ 1 Nguyễn Ngọc Khánh, 2006. Chế định hợp đồng từ Luật La Mã đến BLDS, Tạp chí Kiểm sát, số 7 (4-2006), tr.38.
  14. 7 XVIII – XX, sự phát triển của ngành khoa học pháp lý cũng như những tác động từ sự chuyển hóa kinh tế – xã hội đã khiến cho chế định hợp đồng lần lượt được các nước Châu Âu pháp điển hóa vào bộ luật dân sự của quốc gia mình. Chẳng hạn như tại quy định của Bộ luật Napoleon, hay còn gọi là BLDS Pháp - có hiệu lực từ năm 1804 và mang giá trị cho đến tận ngày nay - đã quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó một hoặc nhiều người cam kết với một hoặc nhiều người khác về việc chuyển giao một vật, làm hoặc không làm một công việc nào đó”2. Tại Việt Nam, sự phát triển của hệ thống pháp luật nói chung, chế định pháp luật hợp đồng nói riêng có lịch sử phát triển có phần chậm hơn so với các nước trên thế giới. Thuật ngữ “hợp đồng” hoặc tương đương không thể tìm thấy trong các văn bản pháp luật chính thức nào của nhà nước phong kiến Việt Nam3. Cho đến khi lịch sử lập pháp Việt Nam chứng kiến sự ra đời của ba bộ dân luật quan trọng, đó là Bộ Dân Luật giản yếu Nam Kỳ năm 1883, Bộ Dân Luật Bắc Kỳ năm 1931 và Bộ Dân Luật Trung Kỳ năm 1936. Đây là kết quả tiếp thu kinh nghiệm từ BLDS Pháp du nhập vào nước ta, đánh dấu lần đầu tiên pháp luật Việt Nam định nghĩa “hợp đồng” – tại thời điểm đó mang tên gọi là “khế ước” – là “một hiệp ước của một người hay nhiều người cam đoan với một hay nhiều người khác để chuyển giao, để làm hay không làm cái gì”4. Cho đến ngày nay, pháp luật Việt Nam hiện hành định nghĩa hợp đồng là “sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”5. Định nghĩa này tuy ngắn gọn nhưng đã khái quát đầy đủ nội hàm cơ bản của hợp đồng, đồng thời thể hiện chính xác bản chất của hợp đồng là một thỏa thuận. Tóm lại, cho dù được định nghĩa như thế nào, bằng ngôn ngữ gì, hợp đồng tại bất kỳ nơi đâu trên thế giới, trong bất kỳ lĩnh vực nào, đều có bản chất là một sự thỏa thuận 2 Điều 1011 BLDS Pháp. 3 Nguyễn Ngọc Khánh, 2006. Chế định hợp đồng từ Luật La Mã đến BLDS. Tạp chí Kiểm Sát, số 7 (4-2006), tr.38-39. 4 Điều 644, đoạn 2, Bộ Dân Luật Bắc Kỳ và Điều 680, đoạn 2, Bộ Dân Luật Trung Kỳ. 5 Điều 385 BLDS 2015.
  15. 8 giữa hai hoặc nhiều bên, tạo ra các trách nhiệm pháp lý cho các bên bởi những quyền và nghĩa vụ phát sinh từ thỏa thuận đó6. Trong một nền kinh tế thị trường ngày một sôi động, các quan hệ xã hội ngày càng mở rộng, đây chính là tiền đề cho việc gia tăng các giao dịch kinh tế, dân sự với nội dung, tính chất ngày một phức tạp với sự sáng tạo không ngừng của các chủ thể tham gia. Ngày nay, bản chất hợp đồng được pháp luật đề cập vẫn không thay đổi - vẫn là sự thỏa thuận giữa các bên. Tuy nhiên, quan hệ hợp đồng hiện nay đã phát triển phức tạp hơn với các loại hợp đồng mới mẻ, trong đó có hợp đồng có một bên yếu thế - vốn đang gây ra nhiều tranh chấp trong thực tiễn hiện nay. Do đó, cần thiết phải giải quyết tiếp theo đây là trả lời câu hỏi, hợp đồng có một bên yếu thế là như thế nào? 1.1.2 Định nghĩa về hợp đồng có một bên yếu thế Trước tiên, phân tích từ tên gọi “hợp đồng có một bên yếu thế”, ta xác định được trước hết đây là một quan hệ hợp đồng, tức tồn tại một thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều bên, trong đó chủ thể của quan hệ hợp đồng này sẽ bao gồm một bên mạnh thế và một bên yếu thế. Đi vào sâu hơn phân tích nội hàm của quan hệ hợp đồng này, bản chất của sự thỏa thuận giữa bên mạnh thế và bên yếu thế phải tồn tại sự mất cân xứng về một khía cạnh nào đó thuộc về hợp đồng. Đó có thể là sự mất cân xứng về khía cạnh năng lực đàm phán, hay lợi thế về thông tin hoặc sự chiếm ưu thế trong khả năng giải quyết tranh chấp và chính sự mất cân xứng này dẫn đến sự không cân bằng về mặt lợi ích giữa các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng. Trước đây, khi bàn về bên yếu thế trong pháp luật hợp đồng thường được các nhà nghiên cứu đề cập ở những góc độ yếu thế về năng lực hành vi tham gia quan hệ hợp đồng, như về vấn đề thể chất hoặc khả năng thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Thật vậy, tại Việt Nam khi nghiên cứu về đề tài này nhiều quan điểm cho rằng bên yếu thế trong quan hệ hợp đồng cũng tương đồng với nhóm yếu thế (nhóm thiệt thòi) được đề cập trong các vấn đề về an sinh xã hội như người tàn tật, thanh thiếu niên, người cao tuổi, phụ nữ, trẻ 6 Hoàng Thế Liên (Cb), 1997. Bình luận khoa học Một số vấn đề cơ bản của BLDS (1995), NXB Chính Trị Quốc Gia, tr. 162.
  16. 9 em 7 Tuy nhiên, xét trong phạm vi nghiên cứu về đề tài “hợp đồng có một bên yếu thế” thì việc xác định như trên là chưa đầy đủ. Ở một góc nhìn khác, các nhà nghiên cứu luật học tại Trường Đại học Luật TP.HCM vừa qua đã tổ chức nghiên cứu về “Bảo vệ quyền lợi của người yếu thế trong lĩnh vực dân sự” bao gồm các vấn đề như hợp đồng dân sự theo mẫu, hợp đồng cho vay nặng lãi, hợp đồng có chủ thể yếu thế về thông tin, hợp đồng có chủ thể là lao động nữ, lao động trẻ em, người khuyết tật, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần 8. Tiến hành rà soát các văn bản pháp luật dân sự hiện hành tại Việt Nam thì có thể thấy rằng, vấn đề hợp đồng có một bên yếu thế là gì và có những đặc trưng thế nào vẫn chưa được trực tiếp ghi nhận cụ thể. Tuy nhiên, trong lịch sử lập pháp Việt Nam đã từng minh thị quy định bảo về bên yếu thế trong hợp đồng với việc xác định sự không công bằng về lợi ích – hay còn gọi là “sự thiệt thòi” – chính là một “tì ố của sự ưng thuận”, là một yếu tố dẫn đến hợp đồng mất hiệu lực, đồng nghĩa giải thoát cho bên yếu thế khỏi các nghĩa vụ ràng buộc tại hợp đồng. Tại các Điều 652 Bộ Dân Luật Bắc Kỳ và Điều 688 Bộ Dân Luật Trung Kỳ đều có quy định rằng trong một khế ước, một bên chịu thiệt thòi (la lésion) khi nào họ không nhận được những lợi ích tương đương với cùng khoản mà họ phải cấp cho người đối ước như trường hợp mua đắt, bán rẻ, làm công quá hạ, trả lãi quá cao thì pháp luật, trong một số trường hợp hạn định, sẽ chấp nhận sự thiệt thòi này như một nguyên nhân để tiêu hủy khế ước9. Để áp dụng quy định này, khế ước có sự thiệt thòi phải thỏa mãn 02 hai yếu tố bắt buộc như sau: (i)Một là, sự thiệt thòi trong khế ước phải lớn hơn ngạch khoản đã minhthị trong luật, tùy theo khế ước. Chẳng hạn như theo quy định tại Điều 986 Bộ Dân Luật Bắc 7 Xác định về nhóm yếu thế/nhóm thiệt thòi theo nghiên cứu “Công tác hỗ trợ nhóm yếu thế ở Việt Nam” của Phạm Văn Quyết, Phạm Anh Tuấn. truy cập ngày 25/6/2017. 8 Xem thêm Hội thảo “Bảo vệ quyền lợi của người yếu thế trong lĩnh vực dân sự” do Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật TP.HCM năm 2013 8719:luat-dan-su&catid=330:s-ds-nckh&Itemid=369 9Vũ Văn Mẫu, 1963. Việt Nam Dân luật lược khảo – Quyển II. Sài Gòn, Nhà xuất bản Bộ Quốc gia Giáo dục, tr.135.
  17. 10 Kỳ và Điều 1104 Bộ Dân Luật Trung Kỳ thì trong trường hợp sự thiệt thòi có giá trị lớn hơn phân nửa (1/2) giá bán bất động sản thì khế ước đó tồn tại một sự thiệt thòi; và (ii) Hai là, sự thiệt thòi phải có tính hiện hữu ngay lúc kết ước khế ước; nhằm phân biệt với trường hợp rằng khi khế ước được ký kết thì các cung khoản của hai bên rất tương xứng, nhưng khi thi hành thì lại có sự xuất hiện chênh lệch rất lớn về nghĩa vụ của hai bên, trường hợp này được pháp luật ghi nhận là một trường hợp bất tiên liệu (l’imprévision)10 (đây cũng chính là điều khoản hardship trong pháp luật hiện hành). Tuy nhiên, pháp luật hợp đồng thời bấy giờ cũng không minh thị quy định cụ thể định nghĩa của hợp đồng có một bên yếu thế là như thế nào. Hoa Kỳ cũng là một quốc gia có ghi nhận về hợp đồng có một bên yếu thế với tên gọi khác là Hợp đồng hoặc điều khoản bất công thái quá (Unconscionable Contract or Terms) tại Bộ luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ (Uniform Commercial Code - UCC) - một đạo luật mẫu (nhất thể hóa) được xem là quan trọng nhất làm khuôn mẫu trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ11. Tuy nhiên, pháp luật hợp đồng Hoa Kỳ cũng chỉ dừng lại ở việc quy định thẩm quyền Tòa án can thiệp vào điều khoản hoặc hợp đồng mà Tòa án cho là bất công thái quá tại thời điểm ký kết12 mà không có một định nghĩa cụ thể về Hợp đồng hoặc điều khoản bất công thái quá. Tựu trung tất cả các nguồn thông tin tham khảo cũng như kiến thức nêu trên, người viết xin đưa ra định nghĩa của riêng mình về hợp đồng có một bên yếu thế: Đó là một hợp đồng chứa đựng những điều khoản không công bằng, tồn tại tình trạng bất lợi nghiêm 10 Chú thích số 9, tr.141-143. 11 Sau khi UCC được thống nhất về hình thức lần cuối cùng vào năm 1957, nó đã được tất cả 50 tiểu bang và Đặc Khu Columbia thông qua, mặc dù có những trường hợp ngoại lệ như Tiểu Bang Louisiana không phê chuẩn toàn bộ Điều 2 (Article 2) (quy định về hợp đồng mua bán) hoặc như Tiểu Bang California không ghi nhận quy định về “Unconscionable Contract or Clause” như một phần của Điều 2 (Article 2) UCC, tuy nhiên Tiểu Bang này vẫn có quy định tương tự về Hợp đồng hoặc điều khoản bất công thái quá tại Điều 1670.5 Bộ luật California (The California Code). Xem thêm về việc ghi nhận UCC tại các tiểu bang Hoa Kỳ tại: truy cập ngày 22/3/2017. 12 Điều §2-302 UCC.
  18. 11 trọng của bên yếu thế và sự trục lợi bằng những hành động không phù hợp của bên mạnh thế. 1.2 Những vấn đề lý luận về hợp đồng có một bên yếu thế 1.2.1 Cơ sở lý luận của hợp đồng có một bên yếu thế: Học thuyết giao dịch không cân bằng Học thuyết về giao dịch không công bằng (Unconscionability Doctrine) được thừa nhận trong dòng họ pháp luật Common Law và được xem như một trường hợp làm mất hiệu lực của hợp đồng kinh điển được giảng dạy tại các trường luật tại Anh, Úc hay Hoa Kỳ. Đã có nhiều nghiên cứu về Unconscionability Doctrine đều thống nhất rằng sự ra đời của nó liên quan đến nguyên tắc công bằng (Equity), vốn xuất hiện từ thế kỷ XII tại Anh. Equity được xây dựng nhằm bảo vệ những điều chính đáng, đúng đắn hoặc phù hợp với lương tâm con người, công lý tự nhiên; theo thời gian được đúc kết thành hệ thống các học thuyết và thủ tục pháp lý với tên gọi Luật Công bằng (Equity Law) phát triển song song với pháp luật Common Law truyền thống; sau đó Equtity được sử dụng làm nguyên tắc xét xử chủ yếu tại Tòa Đại pháp (Court of Equity)13. Lần ghi nhận đầu tiên của nguyên tắc công bằng trong giao dịch không công bằng này có thể kể đến án lệ James v Morgan (1663) tại Anh - được chủ trì bởi Ngài Chánh án Robert Hyde tại Tòa án Hoàng đế (Court of the King’s Bench). Theo án lệ này, người bán đã dùng một cách tính phức tạp quá mức khiến cho người mua vì thiếu hiểu biết đã mua một con ngựa với “mức giá cắt cổ” là £100 (một trăm bảng Anh) dù rằng giá trị thực tế của nó chỉ là £8.Với lý lẽ bảo vệ lẽ công bằng, Tòa án Anh đã trực tiếp điều chỉnh giá trị của giao dịch, phán quyết giá trị mua bán của giao dịch này là £8. Mặc dù tại án lệ này không đề cập đến khái niệm Unconscionability Doctrine nhưng đã được hầu hết các nhà nghiên cứu về đề tài này xem là án lệ đầu tiên công nhận nguyên tắc chống lại giao dịch bất bình đẳng trong thông luật tại Anh cũng như trong pháp luật hợp đồng của thế giới14. 13Trường Đại học Luật Hà Nội, 2014. Giáo trình luật so sánh, Nhà xuất bản Công an nhân dân, tr.222-223. 14 Per Gustafsson, Master Thesis, 2010. The Unconscionability Doctrine in U.S. Contract Law. The falcuty of law, Lund University, Sweden, p.6.
  19. 12 Những án lệ đầu tiên ghi nhận Unconscionability Doctrine được ban hành bởi Tòa Công bằng tại Anh, tiêu biểu nhất là án lệ Earl of Aylesford v Morris (1873), theo đó Tòa án quyết định bảo vệ người thanh niên trẻ vì sự hoang phí của mình đã bán đi quyền hưởng di sản với giá rẻ mạt, Tòa đã tuyên hủy giao dịch này vì cho rằng “người thanh niên này đã bước vào một giao dịch tăm tối, đầy lừa dối và cạm bẫy, nơi anh ta không thể tự bảo vệ mình trước những người cố tâm khai thác điểm yếu của anh”. Một trường hợp khác Tòa án hủy bỏ giao dịch mà họ cho rằng không công bằng là án lệ Fry v Lane (1888), trong đó hai anh em nhà Fry làm nghề sửa ống nước và giặt giũ, mỗi tuần kiếm được £1; sau đó, họ được hưởng quyền thừa kế bất động sản của người bác trai, tùy thuộc vào tuổi thọ của người bác gái của họ. Tuy nhiên, họ được tư vấn bởi một luật sư “thiếu kinh nghiệm” và đồng thời cũng là luật sư tư vấn cho ông Lane, để bán cho ông Lane quyền thừa kế với giá rẻ mạt lần lượt là £170 và £270 vào năm 1878. Khi người bác gái qua đời vào năm 1886, số tiền mỗi người đáng lẽ ra nhận được là £730, còn lúc năm 1878 số tiền này phải là £475 cho mỗi người thừa kế. Thẩm phán Kay J đã phán quyết rằng những người thừa kế trẻ tuổi là “những người nghèo đáng thương với giáo dục không hoàn hảo” và cần được can thiệp của Luật Công Bằng, lúc này, sự định giá quá thấp của người mua chính là một bằng chứng vô lương tâm rõ ràng và Tòa yêu cầu người mua có nghĩa vụ xác định lại giá trị chuyển nhượng quyền thừa kế sao cho “công bằng, vừa phải và hợp lý”15. Cả hai án lệ này đã trở thành các án lệ kinh điển của các trường hợp giao dịch không công bằng tại Anh, trong đó “nhấn mạnh vị trí yếu thế hơn của một bên, và chính điểm yếu này đã bị bên còn lại khai thác để đạt được những lợi ích không công bằng”16. Unconscionability Doctrine sau khi ra đời lại không được ghi nhận nhiều sự phát triển tại các Tòa án Anh Quốc, lý do của việc này được Lord Diplock cho rằng: Dưới sự ảnh hưởng của Jeremy Bentham với “Thuyết công lợi” và “Thuyết Laissez-faire” (Tự do kinh tế), các Tòa án Anh vào thế kỷ XIX đã từ bỏ việc áp dụng các chính sách chống lại giao dịch không công bằng trong các vụ việc liên quan tới hợp đồng17. Sự hồi sinh của 15 Jill Poole, 2016. Casebook on Contract Law the 13th edition, Oxford University Press, p.731. 16 Janet O’Sullivan, Jonathan Hilliard, 2012. The law of contract 5th Edition, Oxford University Press, p.292-293. 17 Veronika Timofeeva, “The doctrine of unconscionable bargains is too uncertain and undermines the classical theory of contract”, truy cập ngày 25/6/2018, p.2.