Luận văn Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian theo pháp luật Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian theo pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_bao_ho_quyen_tac_gia_doi_voi_tac_pham_van_hoc_dan_g.pdf
Nội dung text: Luận văn Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian theo pháp luật Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ TRIỂN BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật dân sự Mã số: 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS Nguyễn Thị Quế Anh HÀ NỘI - 2013
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Triển
- MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Mục tiêu nghiên cứu 2 3. Tính mới và những đóng góp của đề tài 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4 5. Nội dung, tình hình và phương pháp nghiên cứu 4 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN 7 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ 7 1.1.1. Khái niệm quyền tác giả 7 1.1.2. Điều kiện bảo hộ quyền tác giả 9 1.1.3. Nội dung quyền tác giả 11 1.2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN 14 1.2.1. Lịch sử phát triển của tác phẩm văn học dân gian 14 1.2.2. Khái niệm tác phẩm văn học dân gian 16 1.2.3. Các đặc trưng cơ bản của quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian 19 1.2.4. Mục đích bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian trên thế giới 22 1.3. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN 26
- 1.3.1. Trước khi có Bộ luật Dân sự 2005 ban hành 26 1.3.2. Sau khi Bộ luật Dân sự 2005 ban hành 29 1.4. PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN 33 Chương 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 47 2.1. MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH 48 2.2. ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN 49 2.3. TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN - ĐỐI TƯỢNG BẢO HỘ 51 2.4. XÁC LẬP QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN 52 2.5. NỘI DUNG BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH 53 2.6. XÁC ĐỊNH HÀNH VI XÂM PHẠM 55 2.7. CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN 56 2.7.1. Biện pháp hành chính 56 2.7.2. Biện pháp dân sự 57 2.7.3. Biện pháp hình sự 59 2.7.4. Biện pháp kiểm soát biên giới 59 2.8. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN VIỆT NAM 60
- Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ 67 3.1. CÁC KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN 67 3.1.1. Một số vấn đề cần lưu ý khi xem xét việc bảo hộ tác phẩm văn học dân gian 67 3.1.2. Giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian 69 3.2. CÁC KIẾN NGHỊ CHỦ YẾU ĐỐI VỚI VIỆC THỰC THI CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN 73 3.2.1. Nâng cao năng lực kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian 73 3.2.2. Nâng cao ý thức của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và người sử dụng 73 3.2.3. Nâng cao năng lực xét xử của Tòa án trong giải quyết tranh chấp và xét xử các vụ án hình sự về xâm phạm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian 74 3.2.4. Tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo hộ và bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian 76 3.2.5. Thắt chặt cơ chế kiểm soát biên giới và mạng Internet trong lĩnh vực quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian 76 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 81
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự SHTT : Sở hữu trí tuệ VHDG : Văn học dân gian QTG : Quyền tác giả
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, trải qua quá trình lao động, chiến đấu, xây dựng bảo vệ đất nước, nhân dân ta đã sáng tạo nên những giá trị vật chất và tinh thần to lớn, đáng tự hào. Nền văn học Việt Nam là một trong những bằng chứng tiêu biểu cho năng lực sáng tạo tinh thần ấy. Văn học Việt Nam bao gồm các sáng tác ngôn từ với hai bộ phận lớn có quan hệ mật thiết với nhau, đó là văn học dân gian và văn học viết. Tác phẩm văn học dân gian VHDG) là nền tảng của văn học viết, là chặng đầu của nền văn học dân tộc. Những giá trị mà các tác phẩm văn học dân gian mang đến cho nhân loại là rất to lớn và toàn diện (Sinh hoạt, giải trí, sản xuất kinh doanh và học tập, nghiên cứu khoa học, quản lý nhà nước ) Những giá trị về tinh thần cũng như lợi ích kinh tế mà việc bảo hộ mang lại cho các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả của các tác phẩm văn học dân gian hết sức cần thiết và quan trọng. Nếu cơ chế bảo hộ quyền tác giả thực hiện tốt thì sẽ khuyến khích sự sáng tạo và phát triển của tác giả, chủ sở hữu các tác phẩm văn học nói chung, đồng thời bảo tồn, phát huy những giá trị, nét tinh hoa văn hóa của tác phẩm văn học dân gian mang lại, nhằm góp phần làm cho các tác phẩm văn học trở nên phong phú và đa dạng hơn. Ngược lại, nếu không được ghi nhận xứng đáng sẽ là rào cản hạn chế động lực nghiên cứu, sáng tạo và ứng dụng các tác phẩm văn học dân gian vào trong các quá trình sinh hoạt, giải trí, sản xuất kinh doanh, học tập, nghiên cứu khoa học. Ở Việt Nam quyền tác giả (QTG) đã được ghi nhận lần đầu tiên tại Nghị định 142/HĐBT ngày 14/11/1986 của Hội đồng Bộ trưởng về bảo hộ quyền tác giả và đến nay đã có hàng loạt văn bản đã được ban hành gồm Luật, 1
- các văn bản hướng dẫn thi hành và Hiệp định, Công ước quốc tế tham gia ký kết đảm bảo thi hành quyền tác giả nhưng đối với tác phẩm văn học dân gian vẫn còn những bất cập cần tiếp tục hoàn thiện. Mặc dù trong các cuộc họp thảo luận về dự thảo luật đã được các đại biểu quốc hội đưa ra và bàn luận rất nhiều nhưng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ 2009 thì vấn đề bất cập, mang tính thời sự về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian không được đề cập đến. Bên cạnh đó thì nhận thức của người dân về quyền tác giả nói chung và quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian nói riêng vẫn còn thấp. Việc tuân thủ và thi hành pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian vẫn chưa thực sự đi vào đời sống xã hội của mọi người dân. Thêm vào đó chúng ta còn chưa quen với việc trả một khoản chi phí cho những người có công sưu tầm, nghiên cứu, lưu giữ các tác phẩm văn học dân gian ngoài người bán các sản phẩm này. Nhưng trên hết, vấn đề ở đây không phải là bất cập của hệ thống luật và cũng không phải là ý thức của người dân mà theo quan điểm của cá nhân đó là sự bất hợp lý giữa thu nhập của người dân và mức phí phải trả cho quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian là vấn đề nan giải. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn: “Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian theo pháp luật Việt Nam” để làm đề tài luận văn cao học của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu tổng quát Đề tài tập trung làm sáng tỏ các luận cứ khoa học về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian. Qua đó nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó, xây dựng và kiến nghị một 2
- số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế bảo hộ đối với tác phẩm văn học dân gian và nâng cao vai trò của việc sử dụng hợp pháp và hiệu quả về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian ở Việt Nam hiện nay. 2.2 Mục tiêu cụ thể Để đạt được mục tiêu tổng quát trên, đề tài tập trung nghiên cứu những mục tiêu cụ thể sau: + Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc bảo hộ tác phẩm văn học dân gian. + Nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học, xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế, vì vậy cần phân tích, đánh giá toàn diện về thực trạng hoạt động bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian trong thời đại phát triển công nghệ thông tin và công nghệ kỹ thuật số hiện nay trên cơ sở đó so sánh, tham khảo pháp luật quốc tế và luật một số nước phát triển mạnh về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian. Đồng thời tìm ra những hạn chế, bất cập cần phải khắc phục trong các quy định về quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian hiện nay ở Việt Nam. + Đưa ra các giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện vào hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền tác giả nói chung và bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian nói riêng. Đồng thời nâng cao hiệu quả của hoạt động này. 3. Tính mới và những đóng góp của đề tài + Phân tích tổng quan về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian. + Phân tích những đặc điểm của chế độ pháp lý đối với tác phẩm văn học dân gian. + Đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian. + Đưa ra và luận giải một số quan điểm cơ bản về tình trạng vi phạm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian hiện nay ở nước ta. 3
- + Qua việc nghiên cứu, phân tích những khó khăn, cách nhìn nhận của việc sử dụng quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian ở nước ta, từ đó kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của cá nhân, tổ chức sử dụng tác phẩm văn học dân gian trong nghiên cứu, học tập, sinh hoạt, sản xuất kinh doanh + Có cái nhìn mới về việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian. Góp phần bảo vệ, chống vi phạm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian ở nước ta. Tạo niềm tin cho quần chúng nhân dân, các nhà nghiên cứu sưu tầm và phát hiện các loại hình nghệ thuật văn học dân gian đang lưu truyền trong nhân dân nhằm bảo tồn, phát triển chúng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Theo quy định tại Luật Sở hữu trí tuệ 2005, quyền tác giả là một quyền rộng bao gồm nhiều đối tượng trong các lĩnh vực như: văn học, nghệ thuật, khoa học Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của đề tài này chỉ tập trung việc phân tích, làm rõ quy định của quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian theo pháp luật Việt Nam. 5. Nội dung, tình hình và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp nghiên cứu + Dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. + Các phương pháp cụ thể: phân tích, so sánh, thống kê, tổng hợp. 5.2. Tình hình nghiên cứu Đã có rất nhiều bài viết liên quan đến quyền tác giả nhưng mới chỉ ở mức độ bài báo cung cấp thông tin. Một số luận văn thạc sĩ liên quan đến quyền tác giả như: Một số vấn đề về quyền tác giả trong Bộ luật Dân sự Việt Nam của Kiều Thanh, Trường Đại học Luật Hà nội, 1999, Hoàn thiện pháp luật 4
- về bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam hiện nay, của Hoàng Minh Thái, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001; Pháp luật về quyền tác giả trong quá trình hội nhập quốc tế ở Việt nam, của Bùi Lan phương, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003, Bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam với việc Việt Nam gia nhập công ước Berne, của Ngô Ngọc Phương, khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006; Công ước Berne và việc thực hiện trong lĩnh vực xuất bản ở Việt Nam, của Phạm Thị Hương Giang, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008 Tuy đã có các bài báo, các cuộc hội thảo bàn về những vấn đề bất cập trong Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan có đề cấp đến tác phẩm văn học dân gian nhưng hiện chưa có một đề tài nghiên cứu cụ thể về vấn đề này. Và đặc biệt hơn là tỉnh Thừa Thiên Huế đến nay vẫn còn giữ được sức sống, và còn tiếp tục hoà nhập vào cuộc sống mới, như một tổng kết của tiền nhân, trao truyền lại cho các thế hệ mai sau. Là một di sản văn hoá của dân gian, một kho tàng trí tuệ độc đáo, một gia tài văn hoá cộng đồng, đã trải qua nhiều thử thách của năm tháng. Người ta có thể tìm thấy được ca dao, tục ngữ từ những câu hát ru con, những câu hò trên sông nước, thường nghe được ở Huế và các vùng phụ cận. Bao nhiêu tinh hoa của nhiều thế kỷ đã hội tụ về miền sông Hương, núi Ngự, để tạo nên một vùng đất văn hoá vô cùng đặc sắc. Vì thế, qua ca dao, tục ngữ, thơ người ta có thể thấy được ba yếu tố: Thiên Nhiên, Kiến Trúc, và Con Người Huế, đã hoà quyện với nhau, nuôi dưỡng nhau, để Huế trở nên một vùng đất của Thơ, bầu trời của Nhạc, và thế giới của Tâm Hồn. Để nghiên cứu một cách có hệ thống các chính sách, quy định pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian ở nước ta hiện nay, nhất là từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới là điều cần thiết góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Sở hữu trí tuệ nói chung và pháp luật bảo hộ quyền tác giả, mà cụ thể là quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian nói riêng. 5
- 5.3. Nội dung nghiên cứu Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vần đề lý luận về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian. Chương 2: Những quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian và thực tiễn áp dụng. Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian và nâng cao hiệu quả thực thi. 6
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ 1.1.1. Khái niệm quyền tác giả Quyền tác giả, theo tiếng Anh thực chất là quyền sao chép, vì từ “coppyright” được ghép từ “coppy” (sao chép) và “right” (quyền) [13]. Quyền tác giả là độc quyền của một tác giả cho tác phẩm của người này. Quyền tác giả được dùng để bảo vệ các sáng tạo tinh thần có tính chất văn hóa (cũng còn được gọi là tác phẩm) không bị vi phạm bản quyền, thí dụ như các bài viết về khoa học hay văn học, sáng tác nhạc, ghi âm, tranh vẽ, hình chụp, phim và các chương trình truyền thanh. Quyền này bảo vệ các quyền lợi cá nhân và lợi ích kinh tế của tác giả trong mối liên quan với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Quyền tác giả không cần phải đăng ký và thuộc về tác giả khi một tác phẩm được ghi, giữ lại ít nhất là một lần trên một phương tiện lưu trữ. Quyền tác giả thông thường chỉ được công nhận khi sáng tạo này của tác giả trực tiếp sáng tạo ra và có thể chỉ ra được là có tính chất duy nhất. Ở mỗi quốc gia, pháp luật về quyền tác giả trao cho tác giả, chẳng hạn nhạc sỹ, nhà văn công bố tiểu thuyết, người viết phần mềm, nhà thiết kế trang web và các tác giả sáng tạo khác sự bảo hộ pháp lý. Đối với các sáng tạo văn học và nghệ thuật của họ, thường được gọi là “tác phẩm". Pháp luật về quyền tác giả trao cho tác giả của tác phẩm một nhóm độc quyền đối với tác phẩm của họ trong một thời hạn nhất định. Những quyền này cho phép tác giả kiểm soát việc sử dụng tác phẩm của mình theo nhiều cách khác nhau và nhận được tiền thù lao khi có người sử dụng tác phẩm của mình. Hơn nữa, pháp luật về 7
- quyền tác giả cũng trao cho tác giả “quyền nhân thân” nhằm bảo vệ danh tiếng của tác giả và sự toàn vẹn của tác phẩm. Ngoài ra, đối với mỗi hình thức tác phẩm khác nhau thì có thời hạn bảo hộ khác nhau, tùy thuộc vào quy định của mỗi quốc gia. Công ước Berne cho phép tác giả được hưởng quyền tài sản suốt đời cộng thêm tối thiểu 50 năm sau đó. Tuy nhiên, các quốc gia tuân thủ Công ước Berne được phép nâng thời hạn hưởng tác quyền dài hơn. Bộ Luật Dân sự 2005 không có quy định thế nào là quyền tác giả và quyền liên quan. Lần đầu tiên Luật Sở hữu trí tuệ 2005 có quy định về khái niệm quyền tác giả và có trong các văn bản pháp luật hướng dẫn về Luật Sở hữu trí tuệ như Nghị Định 100/ /2006/NĐ-CP (Nghị định 85/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số quy định Nghị định 100) của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan. Như vậy, hiểu một cách đơn giản quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo hoặc sở hữu, bao gồm các quyền nhân thân và quyền tài sản (Điều 19 và Điều 20 của Luật sở hữu trí tuệ 2005). Đối tượng được bảo hộ quyền tác giả là các tác phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật. Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định các loại hình tác phẩm được bảo hộ bao gồm: tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và các tác phẩm khác, bài giảng, bài phát biểu, bài nói khác, tác phẩm báo chí, tác phẩm âm nhạc, tác phẩm sân khấu, tác phẩm điện ảnh, tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm nhiếp ảnh, tác phẩm kiến trúc, tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian, Về mặt pháp lý, quyền tác giả là tổng hợp các quy phạm quy định điều chỉnh quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học [15]. 8
- 1.1.2. Điều kiện bảo hộ quyền tác giả Tại khoản 7 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 định nghĩa tác phẩm như sau: “Tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình tức nào”[27]. Do vậy tác phẩm phải là những sáng tạo tinh thần của tác giả trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện dưới một phương tiện hay hình thức nhất định. Các tác phẩm để được bảo hộ quyền tác giả phải đáp ứng các yếu tố sau: Thứ nhất, tác phẩm phải là thành quả của quá trình lao động trí tuệ mang tính chất sáng tạo và chủ thể của hoạt động sáng tạo này là các tác giả thông qua quá trình lao động trí óc, kinh nghiệm và yếu tố hỗ trợ khác.Vì vậy, tác phẩm hết sức phong phú và đa dạng, chứa đựng những giá trị tinh thần và giá trị kinh tế, công chúng đón nhận được nội dung tư tưởng, tình cảm nhất định. Thứ hai, tác phẩm được bảo hộ phải đảm bảo tính nguyên gốc, tức là phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ bất kỳ một tác phẩm nào khác. Mỗi quốc gia, ý nghĩa chính xác về tính nguyên gốc là khác nhau trong pháp luật về quyền tác giả. Việc xác định tác phẩm “gốc” trong từng lĩnh vực khoa học, văn học, nghệ thuật dựa trên căn cứ thể hiện quá trình lao động sáng tạo của tác giả, những “chất riêng” do tác giả sáng tạo ra. Thực tế, có những trường hợp sao chép, mà tác phẩm gốc và tác phẩm sao chép tương tự nhau hoặc giống nhau song người bình thường không thể nhìn thấy được Ví dụ, rất nhiều các tác phẩm âm nhạc trong và ngoài nước bị "ăn cắp", những bức tranh nổi tiếng của danh họa Picasso luôn là đối tượng của những kẻ chuyên sao chép và làm giả tranh, tuy nhiên những bức tranh "giả" đó sẽ không được bảo hộ, bởi nó không tuân thủ tính nguyên gốc và không thể hiện sự sáng tạo một cách độc lập. Nhưng cùng một ý tưởng về tình yêu mỗi người lại thể hiện dưới một hình thức khác nhau như bài thơ Đợi anh về của Konstantin Simonov, bài hát Ca dao em và tôi của nhạc sĩ An 9
- Thuyên thì những tác phẩm này được bảo hộ như nhau. Nói cách khác, một tác phẩm muốn được bảo hộ phải do chính lao động trí óc của tác giả tạo ra. Mặc dù đã có tiêu chí xác định tác phẩm mang tính nguyên gốc nhưng khi có tranh chấp, tác giả phải chứng minh tác phẩm được sáng tạo độc lập hoặc nếu có sử dụng tác phẩm của người khác thì phải chỉ rõ phần sử dụng này để có thể xác định tính nguyên gốc của tác phẩm của mình và bảo đảm quyền của tác giả khác. Thứ ba, tác phẩm chỉ được bảo hộ hình thức thể hiện như dưới dạng văn bản hay vật thể, chứ không bảo hộ nội dung ý tưởng. Hình thức thể hiện bằng văn bản rất đa dạng tùy thuộc vào loại hình tác phẩm như tác phẩm văn học (thơ, tiểu thuyết, truyện ), tác phẩm nghệ thuật (tranh, ảnh, thư pháp ). Cũng như tác phẩm còn được thể hiện dưới dạng vật thể, nghĩa là dưới dạng hình khối nhất định. Điều 379, khoản 1 Bộ luật Dân sự và Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định quyền tác giả phát sinh từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa. Bên cạnh đó, tác phẩm còn được thể hiện dưới dạng vật thể, nhưng đa số các loại hình tác phẩm trên đều được sử dụng trong hoạt động xuất bản. Tuy nhiên, để đảm bảo an ninh và ổn định chính trị cũng như lợi ích chung của cộng đồng, nhà nước không bảo hộ những tác phẩm có nội dung: chống lại nhà nước, phá hoại đoàn kết toàn dân, tuyên truyền bạo lực, chiến tranh xâm lược; truyền bá tư tưởng văn hóa phản động, lối sống dâm ô đồi trụy, các hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong mĩ tục; tiết lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, bí mật quân sự, đời tư của công dân và bí mật khác do pháp luật quy định; Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, xúc phạm vĩ nhân, anh hùng dân tộc, vu khống, xúc phạm uy tín, danh 10
- dự và nhân phẩm của công dân. Những tác phẩm có nội dung đó không được nhà nước bảo hộ và cũng không được sử dụng để xuất bản dưới bất kỳ hình thức xuất bản nào. Ngoài ra, Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật quy định điều kiện để một tác phẩm được bảo hộ phải đảm bảo được định hình dưới một hình thức nhất định. Điều 3 Công ước cũng quy định rõ các nước thành viên tham gia nếu theo luật pháp nước mình quy định "coi sự tuân thủ các thủ tục như lưu chiếu, đăng kí, thông báo như là một điều kiện để một tác phẩm được bảo hộ thì cũng phải coi đây là một điều kiện bảo hộ theo Công ước" [11]. Các tác phẩm được bảo hộ không phụ thuộc vào việc công bố hoặc chưa công bố nếu như quốc gia có tác phẩm đó là thành viên của Công ước. Nếu là công dân hay cư dân của một nước là thành viên Công ước Berne, hoặc đã công bố tác phẩm của tại một trong số các nước thành viên của Công ước, thì tác phẩm sẽ tự động được hưởng sự bảo hộ quyền tác giả theo quy định trong Công ước Berne ở tất cả các nước thành viên còn lại của Công ước này. Ngoài ra, tác phẩm cũng sẽ được bảo hộ ở các nước thành viên khác giống như các nước đó bảo hộ các tác phẩm của công dân nước mình. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc bảo hộ quyền tác giả có tính chất lãnh thổ. Tác phẩm chỉ được hưởng sự bảo hộ quyền tác giả nếu đáp ứng được các tiêu chuẩn pháp lý được quy định bởi pháp luật về quyền tác giả của nước muốn bảo hộ tác phẩm của mình. Vì vậy, mỗi nước có hệ thống bảo hộ quyền tác giả riêng biệt, dựa trên một hay nhiều đạo luật quy định. 1.1.3. Nội dung quyền tác giả Theo quy định tại Điều 2 Công ước Berne về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, các đối tượng được bảo hộ bởi Công ước bao gồm "tất cả các sản phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật, bất kỳ được biểu hiện theo phương thức hay dưới hình thức nào, chẳng hạn 11
- như sách, sách pample và các bài viết khác, các bài giảng, bài phát biểu, bài thuyết giáo và các tác phẩm khác cùng chủng loại; các tác phẩm kịch, hay nhạc kịch, các tác phẩm hoạt cảnh và kịch câm, các bản nhạc có lời hay không lời, các tác phẩm điện ảnh trong đó có các tác phẩm tương đồng được thể hiện bằng một quy trình tương tự quy trình điện ảnh, các tác phẩm đồ họa, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, bản khắc, thạch bản; các tác phẩm nhiếp ảnh trong đó có các tác phẩm tương đồng được thể hiện bằng một quy trình tương tự quy trình nhiếp ảnh; các tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, minh họa, địa đồ, đồ án, phác họa và các tác phẩm thể hiện không gian ba chiều liên quan đến địa lý, địa hình, kiến trúc hay khoa học" [11]. Nội dung quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản, nằm đan xen ở các quy định của Công ước. Theo Điều 6 của Công ước quyền nhân thân độc lập với quyền kinh tế của tác giả và cả sau khi quyền này đã được chuyển nhượng, tác giả vẫn giữ nguyên quyền được đòi thừa nhận mình là tác giả của tác phẩm và phản đối bất kỳ sự xuyên tạc, cắt xén hay sửa đổi hoặc những vi phạm khác đối với tác phẩm có thể làm phương hại đến danh dự và tiếng tăm tác giả. Việc quy định những quyền trên phụ thuộc vào pháp luật của từng quốc gia thành viên. Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam 2005 quy định nội dung của quyền tác giả đối với tác phẩm bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Việc xác định rõ nội dung quyền tác giả có ý nghĩa rất quan trọng bảo đảm cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả biết được mình có một số hay tất cả các quyền tài sản và quyền nhân thân quy định trong Điều 19 và Điều 20 của Luật Sở hữu trí tuệ. Quyền nhân thân bao gồm quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền nhân thân không gắn với tài sản. Quyền nhân thân không gắn với tài sản (Quyền nhân thân không thể chuyển giao) là những quyền gắn liền với giá trị nhân thân của tác giả không thể chuyển giao, gồm các quyền: quyền đặt tên tác phẩm, quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm và bảo vệ sự toàn 12
- vẹn nội dung tác phẩm. Quyền này gắn liền với tác giả kể cả khi quyền sử dụng, định đoạt tác phẩm đã được chuyển giao, nó được bảo hộ vô thời hạn. Quyền nhân thân gắn với tài sản (có thể chuyển giao) là các quyền cho hay không cho người khác công bố tác phẩm, quyền này có thể chuyển giao và gắn liền với các chế định về quyền tài sản trong quyền tác giả. Đối với quyền tài sản, theo điều 20 Luật sở hữu trí tuệ 2005, quyền tài sản bao gồm quyền làm tác phẩm phái sinh, biểu diễn tác phẩm trước công chúng, sao chép tác phẩm, phân phối nập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm, truyền đạt tác phẩm đến công chúng, cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính. Mọi hành vi sử dụng tác phẩm mà không xin phép chủ sở hữu tác phẩm đều bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Với các quyền trên, chủ sở hữu hoặc đồng chủ sở hữu tự mình thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện, trong trường hợp khi cho người khác thực hiện quyền, họ có thể được hưởng tiền nhuận bút, thù lao, các lợi ích khác theo thỏa thuận. Mọi hành vi sử dụng tác phẩm mà không xin phép chủ sở hữu tác phẩm đều bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Bên cạnh việc tác giả được thừa nhận và bảo hộ quyền theo quy định, thì pháp luật cũng có những giới hạn về quyền tác giả. Việc giới hạn thể hiện ở chỗ pháp luật quy định những trường hợp nhất định thì cá nhân, tổ chức khác có quyền sử dụng tác phẩm được công bố mà không xin phép, không phải tra nhuận bút, thù lao cho tác giả, chủ sở hữu tác phẩm, sử dụng tác phẩm được công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền bản quyền (Điều 25 và Điều 26 luật Sở hữu trí tuệ 2005). Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định về giới hạn quyền tác giả như vậy, một mặt là để đảm bảo tác giả, chủ sở hữu tác phẩm không lạm dụng những đặc quyền dành cho họ, mặt khác đảm bảo sự hài hòa giữa lợi ích của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm với lợi ích của công 13
- đồng, bảo tồn và phát triển những giá trị chung ở mức độ hợp lý. 1.2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC DÂN GIAN 1.2.1. Lịch sử phát triển của tác phẩm văn học dân gian Mỗi một dân tộc trên thế giới đều chứa đựng những nét văn hóa vô cùng phong phú và đặc sắc, điển hình cho những nét văn hóa đó là các tác phẩm văn học dân gian mà chúng ta đã từng biết như: Sử thi dân gian Nga (Tráng sĩ ca), Con vật tinh ranh của Châu phi, thần thoại Hy Lạp, Qua các tác phẩm văn học dân gian hiện lên hình ảnh của các cộng đồng dân tộc, phong tục tập quán, cách ứng xử, họ sống với nhau từ lâu đời và lưu truyền qua nhiều thế hệ, đồng thời phát triển những nét văn hóa đó và cũng thông qua tác phẩm văn học dân gian bộc lộ rõ nét đặc trưng văn hóa của họ, thể hiện tình yêu thiên nhiên, đất nước, nhân tình thế thái. Chúng là một phần của văn hóa loài người và không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi con người, chúng rất quen thuộc với chúng ta qua lời kể truyện cổ tích, những làn điệu dân ca của ông bà, cha mẹ. Các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam đã biết lợi dụng ưu thế của mình về mặt văn hóa để tác động vào sự phát triển kinh tế xã hội, đồng thời có nhiều đổi mới trong chính sách phát triển các tác phẩm văn học dân gian. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa dân tộc thống nhất trên cơ sở đa sắc thái văn hóa tộc người. Người Việt cùng cộng đồng 53 dân tộc anh em có những phong tục, tập quán, lễ hội, sinh hoạt cộng đồng có từ lâu đời và đầy ý nghĩa, được lưu truyền từ đời này qua đời khác thông qua các tác phẩm văn học dân gian. Qua các thời kì lịch sử Việt Nam đã có những thay đổi về văn hóa, nhưng những gì là tinh hoa văn hóa của dân tộc thì được gìn giữ và phát triển từ thế hệ này qua thế hệ khác. Chúng là cả một quá trình sáng tác tập thể và truyền miệng của nhân dân lao động trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. 14
- Tác phẩm văn học dân gian ra đời từ thời kì công xã nguyên thủy, trải qua các thời kì phát triển lâu dài trong các chế độ xã hội có giai cấp, tiếp tục tồn tại cho đến thời đại ngày nay. Lịch sử phát triển của tác phẩm văn học dân gian về cơ bản cũng chính là lịch sử sáng tạo nghệ thuật của nhân dân lao động. Trong quá trình sáng tạo đó, văn học dân gian đã tích lũy được vô số kinh nghiệm sáng tạo nghệ thuật tạo nên một truyền thống nghệ thuật phù hợp với thị hiếu thẩm mĩ của đông đảo quần chúng lao động. Chính trong sinh hoạt thường ngày cũng như nhu cầu sáng tạo nghệ thuật của nhân dân lao động đã làm nên những tác phẩm văn học dân gian có giá trị. Vì vậy, cho tới ngày nay mỗi một tác phẩm văn học dân gian có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền văn hóa dân gian và trong hệ thống các loại hình văn học, nghệ thuật. Sự ra đời và phát triển của tác phẩm văn học dân gian ở mỗi nước có sự khác nhau nên có thể phân chia qua các giai đoạn sau: - Thời kì công xã nguyên thủy: Giai đoạn này thành phần ngôn ngữ chưa phát triển mà nếu có thì chỉ là yếu tố như nhảy múa, âm nhạc của người nguyên thủy. Sự ra đời của sáng tác truyền miệng đánh dấu sự ra đời của loại hình nghệ thuật như thần thoại, cổ tích, bài hát, câu đố Thời kì này, nghệ thuật không tồn tại dưới dạng độc lập mà gắn bó với hoạt động thực tiễn của loài người. - Trong xã hội có giai cấp: Nghệ thuật nói chung trở thành một lĩnh vực hoạt động độc lập và được phân ra thành hai hình thức đặc trưng: văn học thành văn và văn học dân gian. Nếu như trong văn học thành văn tồn tại với tư cách là một loại hình nghệ thuật chuyên nghiệp, thì văn học dân gian tiếp tục tồn tại như một loại hình nghệ thuật không chuyên nghiệp, tức là nó tồn tại cùng với hoạt động sản xuất vật chất và nhu cầu sáng tạo của nhân dân lao động. - Trong gia đoạn hiện nay: Những nước xóa bỏ được sự đối kháng giai 15