Luận văn Bảo hiểm xã hội bắt buộc trong luật bảo hiểm xã hội và thực tiễn thi hành trên địa bàn Thành phố Hà Nội
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Bảo hiểm xã hội bắt buộc trong luật bảo hiểm xã hội và thực tiễn thi hành trên địa bàn Thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_bao_hiem_xa_hoi_bat_buoc_trong_luat_bao_hiem_xa_hoi.pdf
Nội dung text: Luận văn Bảo hiểm xã hội bắt buộc trong luật bảo hiểm xã hội và thực tiễn thi hành trên địa bàn Thành phố Hà Nội
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT o0o NGUYỄN THỊ THUÝ B¶O HIÓM X· HéI B¾T BUéC TRONG LUËT B¶O HIÓM X· HéI Vµ THùC TIÔN THI HµNH TR£N §ÞA BµN THµNH PHè Hµ NéI Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60 38 50 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Hoài Thu Hà Nội – 2014
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Nguyễn Thị Thuý
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 6 Chương 1 - KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC 11 1.1. Khái niệm pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc 11 1.1.1. Quan niệm bảo hiểm xã hội 11 1.1.2. Quan niệm pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc 13 1.1.3. Vai trò pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc 16 1.2. Nguyên tắc pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc 18 1.3. Nội dung pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc 21 1.3.1. Đối tượng áp dụng 21 1.3.2. Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc 24 1.3.3. Các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc 27 1.3.4. Xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã hội bắt buộc 36 Chương 2 - THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 42 2.1. Thực trạng pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc 42 2.1.1.Về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc 42 2.1.2. Về các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc 43 2.1.3. Quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc 2.1.4. Vi phạm và xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc 2.2.Tình hình thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn thành phố Hà Nội 62 2.2.1. Những kết quả đã đạt được 63
- 2.2.2. Những hạn chế trong thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc 66 2.2.3. Nguyên nhân của tình tình trạng chậm đóng, nợ đọng bảo hiểm xã hội 69 2.2.4. Thực tiễn xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn thành phố Hà Nội 71 Chương 3 - MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 74 3.1. Những yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc 74 3.2.Định hướng hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và các vấn đề đặt ra 75 3.3. Một số kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc nói chung và trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng 94 KẾT LUẬN 99 TÀI LIỆU THAM KHẢO 98
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Viết tắt Viết đầy đủ ASXH An sinh xã hội BHXH Bảo hiểm xã hội BHYT Bảo hiểm y tế BHTN Bảo hiểm thất nghiệp ILO Tổ chức Lao động quốc tế HĐLĐ Hợp đồng lao động NLĐ Người lao động NSDLĐ Người sử dụng lao động TNLĐ, BNN Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp 5
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trên thế giới, bảo hiểm xã hội đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm và ngày càng trở thành một công cụ hữu hiệu, một khâu không thể thiếu, một bộ phận hợp thành hệ thống An sinh xã hội của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định chính sách bảo hiểm xã hội là chính sách quan trọng, có tính nhân văn sâu sắc, nhằm đảm bảo tốt hơn đời sống người lao động, góp phần tích cực vào việc ổn định, an toàn xã hội và sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Luật Bảo hiểm xã hội đã được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2007 đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật bảo hiểm xã hội ở nước ta trong việc điều chỉnh quan hệ bảo hiểm xã hội giữa người lao động với người sử dụng lao động, mở rộng hơn nữa các loại hình bảo hiểm xã hội. Theo đó, mở rộng hơn nữa phạm vi tham gia và thụ hưởng bảo hiểm xã hội của người lao động và tăng cường vai trò của Nhà nước trong quản lý về lĩnh vực bảo hiểm xã hội. Sau gần 7 năm triển khai Luật Bảo hiểm xã hội và các văn bản hướng dẫn Luật Bảo hiểm xã hội, hệ thống các văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội đã đi vào cuộc sống, từng bước mở rộng đối tượng tham gia và thụ hưởng bảo hiểm xã hội, phát huy tích cực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và người sử dụng lao động, góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu an sinh xã hội của Nhà nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các chính sách, chế độ về bảo hiểm xã hội cũng bộc lộ không ít các điểm bất hợp lý thể hiện trong bản thân nội dung quy định của chính sách, chế độ và việc tổ chức thực thi các quy định này trong các chế độ ốm đau, thai sản, 6
- tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất của bảo hiểm xã hội bắt buộc. Hạn chế này làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động, tạo ra sự thiếu công bằng giữa các đối tượng thụ hưởng. Chế tài xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội chưa đủ mạnh nên mức tuân thủ còn thấp, tình trạng nợ đóng, chậm đóng bảo hiểm xã hội vẫn còn phổ biến gây ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của người lao động và hoạt động đầu tư sinh lời của quỹ; quỹ hưu trí và tử tuất có nguy cơ mất cân đối trong dài hạn. Một số bất cập nêu trên đòi hỏi cần phải đánh giá một cách đầy đủ hơn chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội, từ đó chỉ ra những quy định phù hợp, những vướng mắc trong thực tế thực hiện cần được nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung đáp ứng với các yêu cầu thực tế xã hội. Vì lý do đó, tác giả chọn đề tài: “Bảo hiểm xã hội bắt buộc trong Luật Bảo hiểm xã hội và thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố Hà Nội” làm luận văn Thạc sỹ Luật học của mình. 2.Tình hình nghiên cứu. Thời gian qua, giới nghiên cứu khoa học xã hội nói chung và khoa học pháp lý nói riêng ở nước ta hướng sự quan tâm, nghiên cứu đến vấn đề triển khai thực hiện các quy định trong Luật bảo hiểm xã hội. Ở phạm vi và mức độ khác nhau đã có một số công trình nghiên cứu, bài viết đề cập đến pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc nói chung và từng chế độ nói riêng, điển hình như: * Đề tài nghiên cứu: - Nguyễn Thị Kim Phụng (2006), Hoàn thiện về pháp luật BHXH ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội. - Vụ Bảo hiểm xã hội (2010), Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc giai đoạn đến 2020, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ. * Luận án tiến sỹ: 7
- - Nguyễn Huy Ban (1996), Hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội ở Việt Nam – Lý luận và thực tiễn, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Luật học, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội. - Lê Thị Hoài Thu (2002), Bảo hiểm thất nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội * Luận văn thạc sỹ: - Bùi Văn Giang (1997), Pháp luật bảo hiểm xã hội trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. - Phạm Lan Hương (2012), Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội. * Một số bài viết đăng trên tạp chí như: - Ts. Lê Thị Hoài Thu (2009), “Luật BHXH từ quy định đến thực tiến áp dụng”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, kỳ 02, tháng 10/2009. - TS. Bùi Thị Lâm Hà ( 2012), “Chế độ tai nạn lao động ở Việt Nam – Những khó khăn, vướng mắc”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, Kỳ 01, Tháng 6/2012. - Hồ Thị Kim Ngân ( 2014), “Một số vướng mắc khi thực hiện các chế độ BHXH ngắn hạn”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, Kỳ 02, Tháng 4/2014 Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu nêu trên đã góp phần tạo ra những cơ sở lý luận và chỉ ra được những vấn đề thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc. Tuy vậy, các công trình này khi nghiên cứu còn tản mạn, hoặc nếu viết về pháp luật bảo hiểm xã hội chưa làm rõ thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc tại một địa phương cụ thể. Do vậy, Luận văn tập trung nghiên cứu và làm sáng rõ thêm những vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc và tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn thành phố Hà Nội để từ 8
- đó đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các quy định của Luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc, các quy định pháp luật liên quan và thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn thành phố Hà Nội. Với mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định trên những nội dung chủ yếu sau: - Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc. - Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về lĩnh vực này. - Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện tại thành phố Hà Nội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố Hà Nội. Về phạm vi nghiên cứu, bên cạnh các quy định của pháp luật hiện hành, luận văn có dẫn chiếu đến pháp luật của một số nước trên thế giới về lĩnh vực bảo hiểm xã hội để gợi mở kinh nghiệm cho Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác – Lê nin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với từng lĩnh vực của đề tài như: 9
- phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, logic, thống kê cũng được sử dụng trong quá trình nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn. Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo cho các cơ quan hữu quan trong quá trình hoàn thiện và thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc, đặc biệt là các cơ quan bảo hiểm xã hội, các đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội. Luận văn cũng có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong công tác giảng dạy, nghiên cứu pháp luật, cũng như cho bất cứ ai có quan tâm đến các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc nói riêng. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn chia thành 3 chương như sau: Chương 1 - Khái quát chung về pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc. Chương 2 - Thực trạng pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố Hà Nội. Chương 3 - Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc trên địa bàn thành phố Hà Nội. 10
- Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC 1.1. Khái niệm pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc 1.1.1. Quan niệm bảo hiểm xã hội Cùng với quá trình phát triển kinh tế, xã hội của nhân loại, BHXH đã được nhiều nhà khoa học đề cập và nghiên cứu dưới nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau. Trên thế giới, thuật ngữ “bảo hiểm xã hội” lần đầu tiên chính thức được sử dụng làm tiêu đề cho một văn bản pháp luật vào năm 1935 (Luật Bảo hiểm xã hội năm 1935 của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ). Thuật ngữ này xuất hiện trở lại trong một đạo luật được thông qua tại New Zealand năm 1938. Năm 1941, trong thời gian chiến tranh thế giới thứ hai, thuật ngữ này được dùng trong Hiến chương Đại Tây Dương (the Atlantic Charter 1941)[39]. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO - viết tắt của International Labour Organization) nhanh chóng chấp nhận thuật ngữ “bảo hiểm xã hội”, đây là mốc quan trọng ghi nhận giá trị của thuật ngữ này, một thuật ngữ diễn đạt đơn giản nhưng phản ánh được nguyện vọng sâu sắc nhất của nhân dân lao động trên toàn thế giới. Theo quan điểm của ILO, BHXH giữ vị trí trụ cột, đóng vai trò quyết định của hệ thống ASXH. BHXH được hiểu là “sự bảo vệ của cộng đồng xã hội đối với các thành viên của mình thông qua sự huy động các nguồn đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội để trợ cấp trong các trường hợp ốm đau, tai nạn, thương tật, già yếu, thất nghiệp. Đồng thời chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con để ổn định đời sống của thành viên và đảm bảo an toàn của xã hội”[37]. Về quan niệm BHXH ở nước ta, trước khi Luật BHXH năm 2006 ra đời thì quan niệm về BHXH chưa được ghi nhận cụ thể ở một văn bản nào. Tuy 11
- nhiên, BHXH đã được nghiên cứu và tiếp cận ở những góc độ khác nhau nên đã có những quan điểm về BHXH như: “Bảo hiểm xã hội là quá trình tổ chức và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích dần do sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động dưới sự điều tiết của Nhà nước nhằm đảm bảo phần thu nhập thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động và gia đình họ khi gặp những biến cố làm giảm hay bị mất thu nhập theo lao động”[22, tr52]. Còn có tác giả lại cho rằng: “Bảo hiểm xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với người lao động thông qua việc huy động các nguồn đóng góp để trợ cấp cho họ, nhằm khắc phục những khó khăn về kinh tế, và xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn, thất nghiệp, mất khả năng lao động, tuổi già, chết. Đồng thời bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp cho các thân nhân trong gia đình người lao động, để góp phần ổn định cuộc sống của bản thân người lao động và gia đình, góp phần bảo đảm an toàn xã hội” [1, tr15]. Cho đến nay, khái niệm BHXH đã được ghi nhận cụ thể tại khoản 1, Điều 3 Luật BHXH năm 2006, theo đó, BHXH được hiểu một cách chung nhất như sau: “ Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội”. Như vậy, qua các quan niệm trên, có thể hiểu BHXH là một hình thức bảo đảm khoản thu nhập thay thế cho NLĐ trong trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao động hay mất việc làm, do đó bị mất hoặc giảm khoản thu nhập được thay thế, nhằm bảo đảm thoả mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu cho họ. Tuy nhiên, những bảo đảm này chỉ được thực hiện khi NLĐ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng BHXH. Người chủ sử dụng lao động cũng phải có 12
- trách nhiệm đóng BHXH cho NLĐ mà mình thuê mướn. Và, tất cả các hoạt động BHXH được thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật. 1.1.2. Quan niệm pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc Dưới góc độ pháp lý thì “Bảo hiểm xã hội là tổng hợp các quy định của Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, xã hội hình thành trong lĩnh vực bảo đảm trợ cấp nhằm ổn định đời sống cho người lao động khi họ gặp những rủi ro, hiểm nghèo trong quá trình lao động hoặc khi già yếu không còn khả năng lao động”[27, tr312,313]. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật BHXH trên thế giới cho thấy, BHXH bắt buộc là vấn đề của mỗi quốc gia. Từ cuối thế kỷ thứ XIX chính quyền nhiều bang ở Đức bắt tay với giới thợ thuyền lập quỹ ốm đau do chính những người thợ đóng góp bắt buộc để tương trợ cho những người bị ốm đau. Đây là lần đầu tiên đánh dấu sự ra đời của loại hình BHXH bắt buộc. Người có công đầu trong việc xây dựng và ban hành pháp luật BHXH thuộc về Tể tướng Đức Bismac (Bismarck). Chính ông đã đưa ra quan điểm: “Bảo hiểm xã hội là sự tương trợ của cộng đồng đối với người lao động, trên cơ sở gắn liền với nghĩa vụ đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và trách nhiệm của xã hội (tức là của Nhà nước).” Năm 1883, đạo luật đầu tiên về BHXH ở Đức ban hành, nhằm trợ cấp cho NLĐ bị ốm đau. Năm 1884 mở rộng thêm dạng trợ cấp rủi ro nghề nghiệp, sau này gọi là trợ cấp TNLĐ, BNN. Đến năm 1889 thì phát triển thêm dạng trợ cấp tuổi già và trợ cấp tàn tật. Pháp luật BHXH của Đức quy định việc tổ chức quản lý thực hiện BHXH gồm 3 bên, là đại diện NLĐ, đại diện NSDLĐ và Nhà nước. Cả 3 bên đều có trách nhiệm đóng góp một phần vào quỹ BHXH và cùng quản lý. Mọi người làm công ăn lương đều bắt buộc phải đóng góp BHXH, không phân biệt thợ lành nghề hay thợ phổ thông, thợ trẻ 13
- hay thợ già, thợ là nam hay nữ. Từ đây, NLĐ được bảo hộ về mặt pháp lý từ phía Nhà nước mỗi khi họ gặp rủi ro hay già yếu. Đến nay, hầu hết các nước trên thế giới đã có pháp luật BHXH về BHXH bắt buộc. Mục đích của pháp luật BHXH bắt buộc ở các nước đều giống nhau là sự bảo vệ cho NLĐ khi gặp phải rủi ro, bất hạnh do bị ngừng hoặc giảm thu nhập thì được nhận trợ cấp để sinh sống. Phạm vi và đối tượng áp dụng của pháp luật BHXH bắt buộc được mở rộng dần. Thông thường, các nước thực hiện BHXH cho công chức Nhà nước và quân đội trước, rồi đến công nhân các xí nghiệp do Nhà nước quản lý, sau đó đến người làm công ăn lương do tư nhân thuê mướn và mở rộng đến những dạng lao động khác. Các dạng trợ cấp cũng được bổ sung dần, nhằm che chắn toàn diện những “rủi ro” có thể xảy ra đối với NLĐ. Như trên đã nêu, đạo luật BHXH đầu tiên trên thế giới ở Đức mới chỉ thực hiện dạng trợ cấp ốm đau, sau đó các dạng trợ cấp TNLĐ, BNN, tàn tật (mất sức lao động), già yếu (hưu trí) mới lần lượt được quy định. Nước Nga là quốc gia đầu tiên quy định loại trợ cấp cho phụ nữ góa bụa và có con nhỏ (trợ cấp tiền tuất) khi công chức chết. Sau đó, ở các nước khác cũng thực hiện loại trợ cấp này. Đến năm 1911, Vương quốc Anh là nước đầu tiên có luật về bảo hiểm thất nghiệp. Rồi một số nước khác ở Châu Âu, Canada và Hoa Kỳ cũng thực hiện trong thập kỷ 30 . Đứng trước yêu cầu phát triển và hoàn thiện pháp luật về BHXH của nhiều nước và trước sự thúc đẩy tiến bộ xã hội, ngày 28/6/1952, Tổ chức ILO đã thông qua Công ước số 102 về BHXH bao gồm 9 dạng trợ cấp. Trong Công ước quan trọng này đã định ra một cơ cấu thống nhất và có phối hợp về BHXH giữa các nước thành viên của ILO. Tuy nhiên, Công ước cũng giành một số các lựa chọn có tính chất ngoại lệ cho việc vận dụng đối với những nước chưa phát triển về kinh tế và y tế trong một thời gian thích hợp. 14
- Như vậy, với quan niệm mở rộng dần các chế độ BHXH theo hướng tăng quyền lợi của NLĐ, các chế độ trợ cấp BHXH được phát triển dần từ một đến chín loại để khắc phục những rủi ro xảy ra đối với NLĐ. Cho đến năm 2006 trên thế giới đã có 172 nước có hệ thống pháp luật về BHXH [7,tr6]. Để thực hiện BHXH bắt buộc đối với số đông NLĐ, thì vấn đề mấu chốt là phải huy động các nguồn đóng góp vào quỹ BHXH và cần phải có kế hoạch cân đối việc thu và chi BHXH. Lịch sử phát triển của pháp luật BHXH trên thế giới cho thấy, hầu hết các nước quy định ba nguồn đóng góp vào quỹ BHXH bắt buộc là NSDLĐ, NLĐ và Nhà nước. Một số nước xã hội chủ nghĩa trước đây thì quy định hai nguồn đóng góp là cơ quan, đơn vị và Nhà nước, còn NLĐ không phải đóng góp. Cá biệt có nước dùng tiền thu thuế để trợ cấp BHXH. Ngoài phần đóng góp của các chủ thể vào quỹ BHXH bắt buộc thì quỹ còn có khoản thu khác như lãi suất do dùng tiền BHXH để đầu tư. Và trên hết, để thực hiện được mục đích của BHXH bắt buộc thì pháp luật của các nước đều quán triệt quan niệm phải tăng cường vai trò mọi mặt của Nhà nước đối với BHXH bắt buộc, mọi hoạt động liên quan đến BHXH bắt buộc do Nhà nước thống nhất quản lý. Vai trò của Nhà nước thể hiện trước hết ở việc Nhà nước trực tiếp ban hành các quy định về BHXH bắt buộc, trực tiếp tổ chức ra bộ máy thực hiện BHXH và kiểm tra việc thực hiện BHXH bắt buộc. Tùy theo điều kiện kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ phát triển của đất nước mà Nhà nước hoạch định chính sách quốc gia về BHXH bắt buộc. Với tư cách là người chủ sở hữu lớn nhất, Nhà nước có trách nhiệm đóng góp và hỗ trợ quỹ BHXH bắt buộc. Trong những trường hợp cần thiết, Nhà nước còn áp dụng những biện pháp để bảo tồn và tăng trưởng giá trị của quỹ BHXH bắt buộc. 15
- Qua nghiên cứu các quan niệm pháp luật về BHXH bắt buộc có thể thấy, mặc dù BHXH bắt buộc phụ thuộc vào điều kiện và quan niệm của mỗi quốc gia, nhưng nhìn chung BHXH bắt buộc là một bộ phận quan trọng nhất của hệ thống BHXH. Nếu có một chính sách đúng đắn thì BHXH đóng vai trò quan trọng trong việc giữ ổn định tình hình chính trị của đất nước và sự phát triển nền kinh tế quốc dân, ngược lại, nếu không có định hướng đúng thì nó sẽ tác động tiêu cực tới tình hình chính trị, kinh tế, sự tiến bộ xã hội . 1.1.3. Vai trò pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc * Đối với người lao động Mục đích chủ yếu của BHXH là bảo đảm thu nhập cho NLĐ và gia đình họ khi gặp những khó khăn trong cuộc sống làm giảm hoặc mất thu nhập. Vì vậy, BHXH có vai trò rất lớn đối với NLĐ, đó là điều kiện cho NLĐ được cộng đồng tương trợ khi ốm đau, tai nạn, thai sản Đồng thời, BHXH cũng là cơ hội để mỗi người thực hiện trách nhiệm tương trợ cho những khó khăn của các thành viên khác. Từ đó, các rủi ro trong lao động sản xuất (tai nạn, thất nghiệp ) và trong đời sống NLĐ (ốm đau, tuổi già ) được khống chế, khắc phục hậu quả ở mức độ cần thiết. Tham gia BHXH còn giúp NLĐ nâng cao hiệu quả trong chi tiêu cá nhân, giúp họ tiết kiệm những khoản nhỏ, đều đặn để có nguồn dự phòng cần thiết chi dùng khi già cả, mất sức lao động góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân và cho gia đình. Đó không chỉ là nguồn hỗ trợ vật chất mà còn là nguồn động viên tinh thần to lớn đối với mỗi cá nhân khi gặp khó khăn, làm cho họ ổn định về tâm lý, giảm bớt lo lắng khi ốm đau, tai nạn, tuổi già NLĐ tham gia BHXH được đảm bảo về thu nhập ổn định ở mức độ cần thiết nên thường có tâm lý yên tâm, tự tin trong cuộc sống. Nhờ có BHXH, cuộc sống của những thành viên trong gia đình NLĐ, nhất là trẻ em, những người tàn tật cũng được đảm bảo an toàn. 16
- * Đối với người sử dụng lao động Bảo hiểm xã hội giúp cho các tổ chức sử dụng lao động, các doanh nghiệp ổn định hoạt động thông qua việc phân phối các chi phí cho NLĐ một cách hợp lý. Nếu không có BHXH, khi NLĐ ốm đau, tai nạn không có nguồn thu nhập, không có chi phí thuốc men đời sống của họ bị ảnh hưởng thì quan hệ lao động, chất lượng, hiệu quả lao động trong doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng theo. BHXH góp phần làm cho lực lượng lao động trong mỗi đơn vị ổn định, sản xuất, kinh doanh được hoạt động liên tục, hiệu quả, các bên của quan hệ lao động cũng gắn bó với nhau hơn. Bảo hiểm xã hội tạo điều kiện cho NSDLĐ có trách nhiệm với NLĐ, không chỉ khi trực tiếp sử dụng lao động mà trong suốt cuộc đời NLĐ, đến khi già yếu. BHXH làm cho quan hệ lao động có tính nhân văn sâu sắc, nâng cao trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. * Đối với xã hội Bảo hiểm xã hội có tác dụng đối với xã hội là tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro, nâng cao tính cộng đồng xã hội, củng cố tình đoàn kết, gắn bó giữa các thành viên trong xã hội. Chính điều đó đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển của BHXH. Mặc dù không nhằm mục đích kinh doanh, lợi nhuận nhưng BHXH là công cụ phân phối, sử dụng nguồn quỹ dự phòng hiệu quả nhất cho việc giảm hậu quả rủi ro, tạo động lực phát triển kinh tế, xã hội. Bảo hiểm xã hội còn phản ánh trình độ phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Nếu kinh tế chậm phát triển, xã hội lạc hậu, đời sống nhân dân thấp kém thì hệ thống BHXH cũng chậm phát triển ở mức tương ứng. Khi kinh tế càng phát triển, đời sống của NLĐ được nâng cao thì nhu cầu tham gia BHXH của họ càng lớn. Thông qua hệ thống BHXH, trình độ tổ chức, quản lý rủi ro xã hội của Nhà nước cũng ngày càng được nâng cao thể hiện bằng việc 17
- mở rộng đối tượng tham gia, đa dạng về hình thức bảo hiểm, quản lý được nhiều trường hợp rủi ro trên cơ sở phát triển các chế độ BHXH Hoạt động BHXH cũng góp phần vào việc huy động vốn đầu tư, làm cho thị trường tài chính phong phú và kinh tế xã hội phát triển. Đặc biệt, với bảo hiểm hưu trí, nguồn vốn tích lũy trong thời gian dài, kết dư tương đối lớn, có thể đầu tư vào các doanh nghiệp, các dự án cần huy động vốn, mang lại lợi ích cho tất cả các bên: người tham gia BHXH, cơ quan BHXH và nền kinh tế nói chung. 1.2. Nguyên tắc pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc Nguyên tắc của pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc là những vấn đề, những quy định được đặt ra và thực hiện xuyên suốt trong mọi hoạt động của bảo hiểm xã hội [20, tr 38]. Là một loại hình bảo hiểm, lại chủ yếu mang mục đích xã hội, BHXH vừa phải thực hiện các nguyên tắc chung của hoạt động bảo hiểm, vừa phải thực hiện các nguyên tắc mang tính xã hội của mình. Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật BHXH bao gồm: Thứ nhất, mọi người lao động đều có quyền tham gia và hưởng bảo hiểm xã hội. Tham gia BHXH là một trong các phương thức đảm bảo quyền bình đẳng cho NLĐ trên phương diện xã hội, nhất là trong điều kiện BHXH có sự bảo trợ của Nhà nước.Vì vậy ngày nay, BHXH đã trở thành quyền cơ bản của NLĐ, xét trên cả bình diện quốc gia và quốc tế. Quyền tham gia và hưởng BHXH không thể bị phân biệt về khu vực, ngành nghề, thành phần kinh tế, giới tính, có tham gia quan hệ lao động hay không Tuy nhiên, NLĐ được tham gia và hưởng BHXH ở mức độ nào, trong những trường hợp nào hay nói cách khác là khả năng được chia sẻ, khắc phục rủi ro đến đâu còn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội và trình độ quản lý rủi ro trong mỗi quốc gia. 18
- Thứ hai, mức hưởng BHXH trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm và chia sẻ cộng đồng. Mức đóng BHXH có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định mức hưởng BHXH. Tuy nhiên, do mục đích ASXH chi phối, trong điều kiện có sự bảo trợ của Nhà nước đối với quỹ BHXH, thì mức đóng quỹ BHXH và mức hưởng từ BHXH thường bị khống chế ở mức trần nhất định. Điều đó để đảm bảo công bằng và đảm bảo ngân sách Nhà nước không phải bảo trợ cho những mức bảo hiểm quá cao, ảnh hưởng đến hoạt động chi ngân sách. Ngoài ra, trong một số trường hợp, mức hưởng BHXH còn phải dựa trên thời gian đóng BHXH, thường được áp dụng với các chế độ bảo hiểm dài hạn. Như vậy, mức đóng, hưởng BHXH của NLĐ phải được tính toán hợp lý trong tương quan với rất nhiều yếu tố. Việc xác định mức đóng, hưởng BHXH hợp lý là nguyên tắc quan trọng để đảm bảo tính hấp dẫn và tính bền vững của BHXH. Thứ ba, bảo hiểm xã hội thực hiện trên cơ sở số đông bù số ít. Khi tham gia BHXH, NLĐ được đảm bảo một khoản thu nhập khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Khoản thu nhập thay thế này nói chung cao hơn so với khoản phí BHXH mà họ đã đóng góp. Để làm được điều này, BHXH phải thực hiện trên cơ sở số đông bù số ít, có nghĩa là lấy số đông người tham gia đóng góp để bù cho số ít người không may gặp rủi ro. Theo nguyên tắc này, càng nhiều người tham gia BHXH thì sự san sẻ rủi ro càng được thực hiện dễ dàng hơn. Thứ tư, Nhà nước thống nhất quản lý bảo hiểm xã hội. BHXH là một chính sách lớn ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, Nhà nước thống nhất quản lý là yêu cầu khách quan đối với việc tổ chức thành công BHXH, nhằm đảm bảo cho giới lao động trong toàn quốc đều có thể tham gia BHXH, thực hiện nguyên tắc lấy số đông bù số ít. Với tư 19
- cách là đại diện chính thức và quản lý xã hội, Nhà nước phải có trách nhiệm thực hiện các chính sách xã hội, quản lý các hoạt động BHXH để đảm bảo ổn định và công bằng xã hội. Bên cạnh đó, BHXH còn là một yếu tố quan trọng để hình thành và phát triển thị trường lao động. Nếu BHXH được Nhà nước quản lý thống nhất, ổn định sẽ tạo điều kiện cho NLĐ dịch chuyển quan hệ lao động từ đơn vị này đến đơn vị khác, từ khu vực này sang khu vực khác theo yêu cầu của thị trường mà quyền lợi bảo hiểm của họ không bị ảnh hưởng. Để đạt được mục tiêu của BHXH, Nhà nước ban hành chính sách, pháp luật về BHXH điều chỉnh trực tiếp, chi tiết các quan hệ bảo hiểm này, các quy định về cơ chế quản lý quỹ bảo hiểm. Nhà nước cũng thành lập tổ chức BHXH, quản lý toàn bộ hệ thống tổ chức và hoạt động BHXH thống nhất trong cả nước. Các cơ quan hữu quan cũng thực hiện việc kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp về BHXH; tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học về BHXH, thống kê, quản lý các thông tin liên quan đến BHXH. Đặc biệt, Nhà nước không chỉ đóng quỹ bảo hiểm cho các lao động làm việc trong khu vực Nhà nước như một chủ sử dụng lao động mà còn là người bảo trợ cho quỹ bảo hiểm trong các trường hợp cần thiết. Nhà nước còn quan tâm đến các biện pháp bảo toàn giá trị quỹ, đảm bảo an toàn về tài chính để NLĐ được hưởng BHXH trong mọi hoàn cảnh. Thứ năm, bảo hiểm xã hội phải kết hợp hài hòa các lợi ích, các mục tiêu và phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước. Bảo hiểm xã hội ngoài mục đích chính đảm bảo thu nhập cho NLĐ còn phải tính đến lợi ích của NSDLĐ và lợi ích xã hội, kết hợp các mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội. Trong thực tế, không chỉ NLĐ mà các bên trong quan hệ BHXH đều nhận được những lợi ích nhất định khi tham gia quan hệ này. Trong đó, mỗi chủ thể vừa hướng tới lợi ích chung để phát triển BHXH bền 20
- vững, vừa có gắng để lợi ích của mình đạt được ở mức cao nhất. Nếu NSDLĐ không tham gia BHXH cho NLĐ thì có thể sẽ phải chi phí lớn khi xảy ra TNLĐ, dịch bệnh Nếu Nhà nước không tổ chức tốt BHXH thì không đạt được ASXH và ảnh hưởng tới cả các điều kiện kinh tế, chính trị của quốc gia. Tuy nhiên, nếu quy định NLĐ được hưởng bảo hiểm ở mức cao, trong thời gian dài thì có thể dẫn đến NSDLĐ phải đóng bảo hiểm ở mức cao. Điều đó làm tăng chi phí sản xuất, tăng giá thành sản phẩm, giảm sức cạnh tranh dẫn đến việc làm, thu nhập của NLĐ đều bị ảnh hưởng. Nếu ngân sách nhà nước bảo trợ quỹ BHXH ở mức độ cao thì đời sống của người hưởng bảo hiểm được bảo đảm nhưng lại ảnh hưởng đến các phương diện khác của quản lý xã hội. Đối với NLĐ, nếu đóng phí bảo hiểm thấp thì phần thu nhập chi cho nhu cầu hàng ngày sẽ nhiều hơn nhưng khi ốm đau, tuổi già lại chỉ được đảm bảo thu nhập ở mức độ thấp (và ngược lại). Tương tự như vậy là việc đầu tư quỹ BHXH, nếu lĩnh vực đầu tư mang lại nhiều lợi nhuận thì rủi ro cho quỹ có thể sẽ lớn, nếu chú trọng việc đảm bảo an toàn trong hoạt động đầu tư thì thường lãi suất thu được sẽ thấp Như vậy, trong việc xây dựng chính sách, quy định các chế độ BHXH cụ thể và trong quản lý, điều hành hệ thống BHXH cần phải tìm ra giải pháp để kết hợp hài hòa lợi ích của các bên tham gia, kết hợp lợi ích trước mắt cũng như lâu dài của các đối tượng và xã hội tại mỗi quốc gia. 1.3. Nội dung pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc 1.3.1. Đối tượng áp dụng Theo đánh giá của ILO, thì bảo hiểm xã hội là một bộ phận quan trọng nhất của bảo đảm xã hội. Bởi vì, BHXH có đối tượng áp dụng chiếm tỷ lệ cao và sự “che chắn” của BHXH là ổn định, vững chắc. Ở các nước, lực lượng lao động thường chiếm từ 55% đến 70% dân số. Điều đó cho thấy đối tượng trực tiếp của BHXH bắt buộc là NLĐ nói chung. Nhưng trên thực tế, do điều kiện 21