Luận văn Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam

pdf 107 trang vuhoa 23/08/2022 10920
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_bao_hiem_nhan_tho_theo_phap_luat_viet_nam.pdf

Nội dung text: Luận văn Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRỊNH THỊ BÍCH THỦY BẢO HIỂM NHÂN THỌ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Hà Nội - 2014
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRỊNH THỊ BÍCH THỦY BẢO HIỂM NHÂN THỌ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Trần Ngọc Liêm Hà Nội - 2014
  3. MỤC LỤC Trang LỜI CAM ĐOAN 1 LỜI MỞ ĐẦU 2 1. Tính cấp thiết của đề tài 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 4 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn 4 4. Phạm vi nghiên cứu 5 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 5 6. Những đóng góp của Luận văn 5 7. Bố cục Luận văn 6 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM VÀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của bảo hiểm nhân thọ 7 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm bảo hiểm 7 1.1.1.1. Khái niệm Bảo hiểm 7 1.1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm 8 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm bảo hiểm nhân thọ 8 1.1.2.1. Khái niệm bảo hiểm nhân thọ 8 1.1.2.2. Đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ 11 1.1.3. Vai trò của Bảo hiểm nhân thọ 15 1.2. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản 18 1.2.1. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cá nhân 18 1.2.2. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ theo nhóm 20 1.2.3. Các loại hình bảo hiểm bổ trợ 22 1.3. Sự khác nhau giữa Bảo hiểm nhân thọ và các hình thức bảo hiểm khác23 1.3.1. Sự khác nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ 23
  4. 1.3.2. Sự khác nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm xã hội 24 1.3.3. Sự khác nhau giữa bảo hiểm nhân thọ và hình thức huy động vốn của ngân hàng 28 KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 30 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM 31 2.1. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ 32 2.1.1. Hình thức hợp đồng bảo hiểm nhân thọ 34 2.1.2. Các bộ phận hợp đồng bảo hiểm nhân thọ 35 2.1.3. Nội dung hợp đồng bảo hiểm nhân thọ 38 2.1.4. Chủ thể giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ 43 2.1.5. Luật điều chỉnh hợp đồng bảo hiểm nhân thọ 35 2.2. Các mô hình hoạt động của công ty bảo hiểm nhân thọ 45 2.2.1. Nguyên tắc hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ 45 2.2.2. Các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ 46 2.3. Kiểm soát bảo hiểm nhân thọ 49 2.4. Tranh chấp bảo hiểm nhân thọ 56 KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 70 CHƢƠNG 3. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ 71 3.1. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam 71 3.2. Giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về Bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam 78 3.2.1. Về phía nhà nước 78 3.2.2. Về phía các công ty bảo hiểm 81 3.2.3. Các giải pháp cụ thể 84 KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 96
  5. KẾT LUẬN CHUNG 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99 `
  6. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Trịnh Thị Bích Thủy 1
  7. LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Với sự phát triển ổn định của nền kinh tế, thu nhập, đời sống của người dân ngày càng được cải thiện và chú trọng thì hoạt động bảo hiểm này càng có điều kiện phát triển, trở thành một trong những kênh huy động vốn quan trọng đầu tư trở lại cho nền kinh tế. Đối với từng người dân, bảo hiểm đảm bảo về mặt tài chính nhằm khắc phục hậu quả khi bất ngờ gặp phải rủi ro tai nạn hay bệnh tật như chi phí điều trị, viện phí, Bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng còn cung cấp những chương trình tiết kiệm và là người đại diện đầu tư mang lại lợi tức đầu tư cho khách hàng. Đối với các doanh nghiệp, việc tham gia bảo hiểm giúp các doanh nghiệp chuyển rủi ro, nhờ vậy các doanh nghiệp an tâm sản xuất và khi có những tổn thất xảy ra, bồi thường bảo hiểm sẽ giúp họ nhanh chóng khôi phục quá trình kinh doanh. Đối với ngân hàng thương mại, bảo hiểm đảm bảo cho khả năng hoàn trả vốn vay của doanh nghiệp, người đi vay trong những trường hợp gặp rủi ro tổn thất. Đối với nông nghiệp, bảo hiểm nông nghiệp như bảo hiểm vật nuôi, bảo hiểm cây trồng sẽ là công cụ hỗ trợ đắc lực cho nhà nông khôi phục sản xuất khi gặp rủi ro, thiên tai, đảm bảo cho sản xuất và lưu thông hàng hóa nông nghiệp không bị ngưng trệ, gián đoạn. Đối với Nhà bảo hiểm và thị trường tài chính, doanh thu phí bảo hiểm sẽ là nguồn tài chính được đầu tư và kích thích sự phát triển của xã hội. Hoạt động bảo hiểm phát triển góp phần cải thiện môi trường đầu tư, giảm thiểu rủi ro trong đầu tư tạo ra môi trường thuận lợi cho việc hợp tác kinh tế, kỹ thuật, thương mại và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác hoạt động bảo hiểm còn mang về cho kinh tế quốc dân một khoản ngoại tệ đáng kể. Bảo hiểm chẳng những có tác dụng bồi thường tổn thất sau khi rủi ro phát sinh mà còn góp phần rất lớn cho vấn đề phòng ngừa rủi ro và hạn chế tổn thất. Ngoài ra, bảo hiểm nhân thọ còn mang ý nghĩa 2
  8. cộng đồng và tính xã hội cao vì mang lại một sự an tâm cho con người, và để những người tham gia bảo hiểm có thể chia sẻ rủi ro với quy luật số đông bù số ít. Dù bất cứ chuyện gì xảy ra, sẽ không có gánh nặng tài chính, tương lai con trẻ vẫn bảo đảm, tuổi già thêm thảnh thơi. Chính vì thế, ở những nước phát triển, trên 90% dân số có bảo hiểm nhân thọ, góp phần tạo dựng sự ổn định xã hội. Luật Kinh doanh bảo hiểm đã được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 09/12/2000, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc xây dựng pháp luật điều chỉnh lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm trong đó có giao dịch bảo hiểm nhân thọ. Bên cạnh những tác dụng tích cực đó, thực tế áp dụng cho thấy những quy định của pháp luật về bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam vẫn còn nhiều điểm chưa phù hợp, gây khó khăn cho các doanh nghiệp bảo hiểm, khó khăn cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thậm chí khó khăn cho cả phía người tiêu dùng sản phẩm, hạn chế sự phát triển lành mạnh của thị trường bảo hiểm. Chẳng hạn: - Hệ thống pháp luật về kinh doanh bảo hiểm vẫn thiếu các chế tài cần thiết đối với việc xử lý các hành vi trục lợi bảo hiểm (của khách hàng, đại lý). - Nhà nước còn thiếu các biện pháp kiểm tra, giám sát đối với đại lý cũng như các thành phần tham gia thị trường bảo hiểm khác thông qua pháp luật. - Những quy định của pháp luật liên quan đến giao dịch bảo hiểm chưa thống nhất, cụ thể và chưa đầy đủ. Điều này dẫn đến việc thực thi các quy định đó còn nhiều bất cập; đặc biệt, trong việc giải quyết những tranh chấp về giao dịch bảo hiểm đã có không ít những bản án, quyết định của Tòa án chưa thực sự phù hợp với thực tế khách quan của vụ việc và bản chất của bảo hiểm nhân thọ. Với những lý do trên, việc nghiên cứu các quy định pháp luật về bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam từ đó đưa ra những định hướng cũng như giải pháp 3
  9. nhằm hoàn thiện chế định pháp luật trong lĩnh vực này là vô cùng cần thiết, có ý nghĩa cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tôi đã chọn đề tài nghiên cứu: “Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam” cho Luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam còn quá mới mẻ. Vì vậy, các công trình nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực này gần như chưa có nhiều. Việc giảng dạy về bảo hiểm nhân thọ ở các trường đại học chuyên ngành kinh tế, tài chính và luật ở Việt Nam mới chỉ ở bước đầu bằng việc cung cấp những kiến thức cơ bản, nội dung chủ yếu vẫn là tham khảo các tài liệu của Nhật và Mỹ. Năm 2001, Nhà xuất bản Thống kê cho tái bản lần thứ nhất cuốn “Một số điều cần biết về pháp lý trong Kinh doanh Bảo hiểm” của GS.TSKH. Trương Mộc Lâm và Lưu Nguyên Khánh. Trong lần tái bản này, cuốn sách đã bước đầu đề cập những nguyên tắc pháp lý trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và đây có thể coi là cuốn sách đầu tiên của Việt Nam về vấn đề này. Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu liên quan như: Nguyễn Anh Tó: Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng bảo hiểm, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2001. Thái Văn Cách: Thực trạng pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, phương hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2001. Vương Việt Đức, Hợp đồng bảo hiểm tài sản, Luận văn Thạc sĩ Luật học, 2003. Phí Thị Quỳnh Nga, Pháp luật về giao dịch bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam, 2006. Như vậy, nhìn một cách tổng quát, khoa học pháp lý nước ta hiện nay, các công trình nghiên cứu chuyên sâu về bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng còn hạn chế. 3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của Luận văn - Mục đích nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam, cụ thể như về khái niệm, đặc điểm, 4
  10. vai trò, thực trạng, ưu điểm và nhược điểm của bảo hiểm nhân thọ, . . .Bên cạnh đó luận văn nêu và phân tích một số ví dụ thực tiễn về tranh chấp liên quan đến hợp đồng bảo hiểm nhân thọ với mục đích phát hiện và phân tích những khiếm khuyết của pháp luật về bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam hiện nay để từ đó có những đề xuất kiến nghị hoàn thiện - Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài: Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, chúng tôi đặt ra mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài là đưa ra định hướng phù hợp để góp phần cho việc hoàn thiện chế định pháp luật về bảo hiểm nhân thọ trong bối cảnh cải cách pháp luật hiện nay ở Việt Nam. 4. Phạm vi nghiên cứu Luận văn không đi sâu vào tất cả các lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp liên quan một cách toàn diện đến bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam mà chỉ giới hạn nghiên cứu những quy định pháp luật Việt Nam về bảo hiểm nhân thọ. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được được nghiên cứu dưới góc độ luật học về lý luận và dựa trên các quy định pháp luật hiện hành gắn với bảo hiểm nhân thọ, đồng thời sử dụng một số phương pháp cơ bản như sau: Phương pháp tiếp cận và phân tích các quy phạm pháp luật và thực tiễn áp dụng; Phương pháp thống kê; Phương pháp so sánh pháp luật; Phương pháp mô hình hóa, điển hình hóa các quan hệ xã hội. 6. Những đóng góp của Luận văn Luận văn là một trong những công trình nghiên cứu chuyên sâu về Bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam. Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo rất quý giá cho những công trình nghiên cứu tiếp theo và trong hoạt động giảng dạy. Bên cạnh đó, những ý kiến đóng góp tích cực của Luận văn cũng góp phần giải quyết những bất cập hiện tại liên quan đến vấn đề bảo 5
  11. hiểm nhân thọ. Đồng thời Luận văn cũng tác động đến những nhà làm luật trong việc ban hành quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp trong bảo hiểm nhân thọ. Ngoài ra, qua những tranh chấp được phân tích trong luận văn cũng phần nào góp phần cung cấp những tri thức quý giá cho những người tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. 7. Bố cục của Luận văn Ngoài phần mở đầu, nội dung và kết luận, dạnh mục tài liệu tham khảo, mục lục, Luận văn chia làm 3 chương, cụ thể như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo hiểm và bảo hiểm nhân thọ; Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam; Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm nhân thọ; 6
  12. CHƢƠNG 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM VÀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của bảo hiểm nhân thọ 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm bảo hiểm 1.1.1.1. Khái niệm bảo hiểm Hiện nay có rất nhiều khái niệm khác nhau về bảo hiểm, vì khái niệm bảo hiểm được xây dựng dựa trên từng góc độ nghiên cứu khác nhau như (xã hội, pháp lý, kinh tế, kĩ thuật, nghiệp vụ, ). Qua nghiên cứu, chúng tôi có thể đưa ra một số khái niệm về bảo hiểm như sau: - Theo Dennis Kessler cho rằng bảo hiểm là sự đóng góp của số đông vào sự bất hạnh của số ít.[45] - Theo Monique Gaullier định nghĩa: Bảo hiểm là một nghiệp vụ qua đó, một bên là người được bảo hiểm cam đoan trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm thực hiện mong muốn để cho mình hoặc để cho người thứ ba trong trường hợp xảy ra rủi ro sẽ nhận được một khoản đền bù các tổn thất được trả bởi một bên khác: đó là người bảo hiểm. Người bảo hiểm nhận trách nhiệm đối với toàn bộ rủi ro và đền bù các thiệt hại theo các phương pháp của thống kê.[45] - Theo Tập đoàn bảo hiểm AIG của Mỹ định nghĩa: Bảo hiểm là một cơ chế, theo cơ chế này, một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho người được bảo hiểm các tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm và phân chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm.[45] - Theo Luật Kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam không đưa ra định nghĩa về bảo hiểm, tuy nhiên Luật có nêu khái niệm về Kinh doanh bảo hiểm: “Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh 7
  13. lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”[20, Đ3] Theo tác giả, bảo hiểm là việc phân chia tổn thất của một hoặc một số người cho tất cả những người tham gia bảo hiểm cùng chịu. 1.1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm - Bảo hiểm bảo đảm cho quá trình tái sản xuất và đời sống của xã hội được diễn ra bình thường. - Bảo hiểm là biện pháp chia sẻ rủi ro của một người hay của một số ít người cho cả cộng đồng những người có khả năng gặp rủi ro cùng loại; bằng cách mỗi người trong cộng đồng góp một số tiền nhất định vào một quỹ chung và từ quỹ chung đó bù đắp thiệt hại cho thành viên trong cộng đồng không may bị thiệt hại do rủi ro đó gây ra. - Bảo hiểm là một cách thức trong quản trị rủi ro, thuộc nhóm biện pháp tài trợ rủi ro, được sử dụng để đối phó với những rủi ro có tổn thất, thường là tổn thất về tài chính, nhân mạng, - Bảo hiểm được xem như là một cách thức chuyển giao rủi ro tiềm năng một cách công bằng từ một cá thể sang cộng đồng thông qua phí bảo hiểm 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm bảo hiểm nhân thọ 1.1.2.1. Khái niệm bảo hiểm nhân thọ Hiểu một cách đơn giản nhất thì bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa công ty bảo hiểm với người tham gia bảo hiểm về việc công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả cho người tham gia bảo hiểm (hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra (người 8
  14. được bảo hiểm bị chết hay sống đến một thời điểm được xác định trong hợp đồng) còn người tham gia bảo hiểm có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Tuy nhiên, hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về bảo hiểm nhân thọ, đứng trên những góc độ khác nhau các nhà nghiên cứu có những quan điểm khác nhau về bảo hiểm nhân thọ. Cụ thể như sau: - Góc độ pháp lý: Bảo hiểm nhân thọ là một loại hình bảo hiểm, trong đó doanh nghiệp bảo hiểm nhận được phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm thông qua một hợp đồng và cam kết chi trả cho một hoặc nhiều người thụ hưởng bảo hiểm một số tiền bảo hiểm nhất định hoặc những khoản trợ cấp nhất định trong trường hợp người được bảo hiểm tử vong hoặc sống đến một thời điểm đã được ghi rõ trong hợp đồng. Trong khi đó, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 định nghĩa “bảo hiểm nhân thọ là loại nghiệp vụ bảo hiểm cho trường hợp người được bảo hiểm sống hoặc chết”[20, Đ3] - Góc độ nghiệp vụ: Bảo hiểm nhân thọ là quỹ dự trữ tài chính do số đông người tham gia Bảo hiểm góp vào và do một Công ty bảo hiểm đứng ra quản lý và đầu tư. Quỹ dự trữ tài chính này sẽ được chi trả khi người được bảo hiểm hoặc người thân của họ chẳng may gặp rủi ro hoặc sẽ được trả khi hết hạn hợp đồng đối với người tham gia bảo hiểm. Nhìn nhận dưới góc độ này, còn có khái niệm khác như bảo hiểm nhân thọ là nghiệp vụ bao hàm những cam kết mà sự thi hành những cam kết này phụ thuộc chủ yếu vào tuổi thọ của con người. Như vậy bảo hiểm nhân thọ giải quyết nỗi lo âu về mặt an toàn trong đời sống nhưng nó chỉ gắn với các biến cố liên quan đến bản thân con người như: tử vong, tai nạn, sống sót v.v. Đôi khi các sự cố không phải luôn tương ứng với các thiệt hại.[46] 9
  15. - Góc độ kinh doanh: Bảo hiểm nhân thọ là sự bảo vệ trường hợp tử vong của một người bằng hình thức trả tiền cho người thụ hưởng (thường là thành viên của gia đình, doanh nghiệp hoặc tổ chức) bằng cách đổi một loạt các khoản phí bảo hiểm hoặc thanh toán phí bảo hiểm một lần. “Khi người được bảo hiểm chết, số tiền bảo hiểm (và bất kỳ số tiền bảo hiểm bổ sung nào được kèm theo đơn bảo hiểm) trừ đi khoản vay theo hợp đồng bảo hiểm và khoản lãi vay chưa trả, sẽ được trả cho người thụ hưởng. Những khoản trợ cấp trả khi còn sống cho người được bảo hiểm dưới hình thức giá trị giải ước (giá trị hoàn lại) hoặc khoản trợ cấp thu nhập”.[29, tr229] - Theo quan điểm của trường Đại học kinh tế Quốc dân cho rằng “bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, mà trong đó doanh nghiệp bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra (người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất định), còn Người tham gia bảo hiểm phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác, bảo hiểm nhân thọ là quá trình bảo hiểm rủi ro có liên quan đến tính mạng, cuộc sống, tuổi thọ và sự an toàn của con người”[28, tr476]. Theo tác giả, dù khái niệm bảo hiểm nhân thọ nhìn ở góc độ nào đi nữa thì cũng chứa đựng bản chất không đổi của bảo hiểm nhân thọ, đó là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện nhất định đã xảy ra (người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất định), còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đẩy đủ, đúng hạn. Hay nói cách khác, bảo hiểm nhân thọ là quá trình 10
  16. bảo hiểm các rủi ro có liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người. Tham gia Bảo hiểm nhân thọ vừa là hình thức tiết kiệm, vừa là hình thức bảo hiểm khi gặp rủi ro xảy ra và tiết kiệm khi hết hạn hợp đồng. Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được ký kết giữa một cá nhân và một công ty bảo hiểm để bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm hoặc cho những người thân của họ. Hợp đồng bảo hiểm cũng được ký kết giữa một tổ chức với một Công ty Bảo hiểm nhân thọ, mục đích là để bảo hiểm cho các thành viên trong tổ chức của mình và đảm bảo ổn định tài chính cho người tham gia Bảo hiểm khi người được bảo hiểm không may gặp rủi ro. Sau khi ký kết hợp đồng với bảo hiểm nhân thọ, người được bảo hiểm được bảo hiểm ngay lập tức. Nghĩa là khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, Công ty bảo hiểm sẽ trả ngay số tiền được bảo hiểm cho người được bảo hiểm hoặc người thân của họ chẳng may gặp sự cố với điều kiện người tham gia bảo hiểm đến lúc đó phải kê khai trung thực và đầy đủ khi điền vào hồ sơ bảo hiểm, phải nộp phí đầy đủ và đúng hạn đến thời điểm đó. Tuy nhiên, đại đa số mọi người sống bình thường cho đến khi hết hạn hợp đồng thì lúc đó Công ty bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia bảo hiểm như số tiền đã cam kết trong hợp đồng. 1.1.2.2. Đặc điểm của bảo hiểm nhân thọ - Bảo hiểm nhân thọ có đối tượng là tuổi thọ của con người: Đặc điểm này rất quan trọng và chi phối các đặc điểm khác. Trong bảo hiểm nhân thọ, nghĩa vụ khai báo đúng tuổi của người được bảo hiểm là rất quan trọng. Căn cứ vào độ tuổi của người được bảo hiểm, bên bán bảo hiểm sẽ xác định người đó có thuộc nhóm tuổi tham gia bảo hiểm hay không cũng như tính toán mức phí bảo hiểm. Về lý thuyết, mức độ rủi ro sẽ khác nhau nếu người được bảo hiểm có độ tuổi 11
  17. khác nhau. Ngoài ra, tuổi thọ của con người còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác như sức khoẻ, bệnh tật, nếp sinh hoạt, gen di truyền, - Bảo hiểm nhân thọ là loại hình bảo hiểm duy nhất có thể chi trả cho dù có rủi ro hay không có rủi ro xảy ra: Đây là một trong những điểm khác nhau cơ bản giữa bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ. Mỗi người mua bảo hiểm nhân thọ sẽ định kì nộp một khoản tiền nhỏ có thể theo từng tháng, từng quý hay từng năm cho công ty bảo hiểm nhân thọ. Ngược lại, công ty bảo hiểm nhân thọ có trách nhiệm trả một số tiền lớn, tức số tiền bảo hiểm cho người được hưởng quyền lợi bảo hiểm theo thoả thuận từ trước khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Số tiền bảo hiểm được trả khi người được bảo hiểm đạt đến độ tuổi nhất định trong hợp đồng. Nhưng nếu không may người được bảo hiểm bị chết sớm thì công ty bảo hiểm nhân thọ cũng sẽ trả toàn bộ số tiền bảo hiểm cho thân nhân và gia đình người đó cho dù họ mới chỉ tiết kiệm được một khoản tiền rất nhỏ qua việc đóng phí. Trên thực tế đã có những trường hợp khách hàng tử vong sau khi kí hợp đồng bảo hiểm nhân thọ được vài tiếng. Lúc này số tiền bảo hiểm mà nhà bảo hiểm chi trả sẽ giúp những người còn sống trang trải những khoản chi phí cần thiết như: mai táng, chi phí giáo dục con cái Đặc biệt với những trường hợp khách hàng không may gặp rủi ro thì họ vẫn được hưởng một số tiền lớn từ công ty bảo hiểm cho dù họ mới chỉ đóng một số tiền nhỏ, điều này thể hiện rõ tính chất rủi ro trong bảo hiểm nhân thọ và góp phần tạo sự khác biệt với các sản phẩm có mục đích tiết kiệm khác. - Bảo hiểm nhân thọ có tính tiết kiệm đối với bên mua bảo hiểm: Tính tiết kiệm của bảo hiểm nhân thọ thể hiện ở việc tham gia bảo hiểm nhân thọ cũng giống như việc gửi tiết kiệm, bên mua bảo hiểm dùng từng khoản tiền nhỏ để 12
  18. đóng phí bảo hiểm, khi sự kiện bảo hiểm xảy ra, người thụ hưởng có thể có được khoản tiền lớn hơn. Việc nộp phí bảo hiểm là nghĩa vụ theo thoả thuận, đồng thời bên mua bảo hiểm không thể tuỳ tiện lấy lại các khoản phí đã nộp (khác với việc gửi tiền tại ngân hàng), chính vì vậy tiết kiệm cho bên mua bảo hiểm những khoản chi tiêu không thật sự cần thiết. Tuy nhiên, tiết kiệm trong bảo hiểm nhân thọ không giống như các hình thức tiết kiệm khác như tiết kiệm ngân hàng, tiết kiệm bưu điện mặc dù các loại hình này đều nhằm mục đích tiết kiệm. Tiết kiệm trong bảo hiểm nhân thọ là tiết kiệm một cách thường xuyên, có kế hoạch và có kỷ luật. Đồng thời đó cũng là sự tiết kiệm từ những khoản tiền rất nhỏ đến khi đáo hạn hợp đồng hoặc có sự kiện bảo hiểm xảy ra khách hàng sẽ nhận được một khoản tiền rất lớn từ nhà bảo hiểm. Tiết kiệm ngân hàng hay tiết kiệm bưu điện không thể chặt chẽ và cũng không bằng những khoản tiền nhỏ định kì như bảo hiểm nhân thọ mà bằng những khoản tiền tương đối lớn, điều mà không phải khách hàng nào cũng đáp ứng được. - Bảo hiểm nhân thọ đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham gia bảo hiểm: bảo hiểm nhân thọ có nhiều loại khác nhau nên có thể đáp ứng nhiều mục đích khác nhau của người tham gia. Cụ thể như: Bảo hiểm tử vong lại giúp người bảo hiểm để lại cho gia đình một số tiền bảo hiểm khi họ qua đời. Số tiền này đáp ứng được rất nhiều tâm nguyện của người quá cố như: phụng dưỡng cha mẹ, giáo dục con cái; Bảo hiểm hưu trí sẽ đáp ứng yêu cầu của khách hàng bằng những khoản trợ cấp hàng tháng, từ đó mang đến sự an nhàn cho tuổi già, đảm bảo cho khoản lương hưu ổn định cho tất cả mọi người kể cả những người không có bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm nhân thọ còn giúp khách hàng thực hiện được những dự định lớn trong tương lai như mua ô tô mới, mua nhà, giữ gìn tài sản, Ngoài ra, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đôi khi còn được sử 13
  19. dụng như là vật thế chấp để vay vốn cho mục đích khởi nghiệp kinh doanh, mua sắm tài sản - Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thường dài hạn và rất đa dạng và phức tạp: Trên thực tế hiện nay, thời hạn ngắn nhất của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ mà các nhà bảo hiểm cung cấp là 5 năm. Tính dài hạn của hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nhằm đảm bảo quyền lợi cho nhà bảo hiểm trong hoạt động đầu tư đồng thời đáp ứng được mục đích tiết kiệm của bên mua bảo hiểm. Mặt khác, thời hạn hợp đồng dài sẽ giúp bên mua bảo hiểm có khả năng nộp phí bảo hiểm. Tính đa dạng và phức tạp trong bảo hiểm nhân thọ được thể hiện ở ngay các sản phẩm của nó. Mỗi sản phẩm bảo hiểm nhân thọ có nhiều loại khác nhau. Chẳng hạn, hợp đồng bảo vệ và tiết kiệm có thời hạn 5 năm, 10 năm, 15 năm, 20 năm. Mỗi hợp đồng lại có thời hạn khác nhau, số tiền bảo hiểm khác nhau, độ tuổi người tham gia cũng khác nhau. Ngay cả các mối quan hệ trong một bản hợp đồng cũng khá phức tạp. Mỗi một hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có thể có 4 bên tham gia: người bảo hiểm, người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm và người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm. Có thể nói hợp đồng bảo hiểm phong phú hơn nhưng cũng phức tạp hơn hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ rất nhiều. - Xác định giá trị thamg gia bảo hiểm nhân thọ khá phức tạp: Phí bảo hiểm nhân thọ được tính dựa trên cơ sở khoa học, để quỹ bảo hiểm có thể tích luỹ đủ số tiền cần thiết để thanh toán khi hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đáo hạn hoặc khi có sự kiện thuộc phạm vi bảo hiểm xảy ra. Ngoài ra, phí còn dùng để lập dự phòng, chi phí quản lý và lợi nhuận. Để sản xuất ra các sản phẩm thông thường chỉ cần chỉ ra những chi phí thực tế phát sinh, tức là những khoản chi phí đầu vào, các khoản này được hạch toán một cách chi tiết, đầy đủ và chính xác để phục vụ quá trình định giá. Bảo hiểm nhân thọ thì khác, trong tiến trình kinh 14
  20. doanh doanh nghiệp cần phải chi trả cho chi phí quản lý hợp đồng, chi phí khai thác, Tuy nhiên những chi phí này mới chỉ là một phần để cấu tạo nên giá cả sản phẩm bảo hiểm nhân thọ. Một phần các yếu tố khác lại phụ thuộc vào: độ tuổi của người được bảo hiểm, tuổi thọ bình quân, số tiền bảo hiểm, thời hạn tham gia, phương thức thanh toán, lãi suất đầu tư, tỷ lệ lạm phát của đồng tiền Vì vậy, quá trình định giá ở đây đòi hỏi phải nắm vững đặc trưng của mỗi loại sản phẩm, phân tích được dòng tiền tệ cũng như chiều hướng phát triển của mỗi sản phẩm trên thị trường. 1.1.3. Vai trò của Bảo hiểm nhân thọ - Thứ nhất, đối với người dân, bảo hiểm nhân thọ góp phần ổn định cuộc sống cho các cá nhân và gia đình, là chỗ dựa tinh thần cho người được bảo hiểm. Rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào và thực tế đã chứng minh rằng nhiều cá nhân và gia đình trở nên khó khăn, túng quẫn khi có một thành viên trong gia đình, đặc biệt thành viên đó lại là người trụ cột bị chết hoặc bị thương tật vĩnh viễn. Khi đó, gia đình phải chi phí mai táng, chôn cất, chi phí nằm viện, thuốc men, chi phí phẫu thuật và bù đắp những khoản thu thường xuyên bị mất đi. Khó khăn hơn là một loạt các nghĩa vụ và trách nhiệm mà người chết chưa kịp hoàn thành như: trả nợ, phụng dưỡng bố mẹ già, nuôi dạy con cái ăn học Dù rằng hệ thống bảo trợ xã hội và các tổ chức xã hội có thể trợ cấp khó khăn, nhưng cũng chỉ mang tính tạm thời trước mắt, chưa đảm bảo được lâu dài về mặt tài chính, bảo hiểm nhân thọ sẽ phần nào giải quyết được những khó khăn đó. - Thứ hai, thông qua dịch vụ bảo hiểm nhân thọ, một dịch vụ có đối tượng tham gia rất đông đảo, các nhà bảo hiểm thu được phí để hình thành quỹ bảo hiểm, quỹ này được sử dụng chủ yếu vào mục đích bồi thường, chi trả và dự phòng. Khi nhàn rỗi, nó sẽ là nguồn vốn đầu tư hữu ích góp phần phát triển và 15
  21. tăng trưởng kinh tế. Nguồn vốn này không chỉ có tác dụng đầu tư dài hạn, mà còn góp phần thực hành tiết kiệm, chống lạm phát và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Ngày nay ở nhiều nước trên thế giới, những tiến bộ khoa học đã góp phần đẩy nhanh quá trình phát triển sản xuất, nâng cao đời sống kinh tế xã hội, kéo dài tuổi thọ của dân cư. Đây là điều đáng mừng, song nó cũng đặt ra cho xã hội, trước hết là nguồn ngân sách Nhà nước một số vấn đề cần được quan tâm giải quyết. Đó là việc phải dành một khoản kinh phí ngân sách ngày càng tăng tương ứng với mức tăng dân số và tuổi thọ để giải quyết các chế độ đảm bảo xã hội, nhất là đối với những người già yếu, không nơi nương tựa. Do vậy, phần vốn ngân sách đầu tư cho phát triển ít nhiều nhất định sẽ bị ảnh hưởng. Nhằm khắc phục ảnh hưởng ấy, nhiều nước trên thế giới đã dùng biện pháp khác để bổ sung vốn đầu tư phát triển. Đây được coi là biện pháp hỗ trợ ngân sách Nhà nước trong việc đảm bảo sinh hoạt bình thường cho những người già yếu, những người mất sức bên cạnh các khoản phúc lợi xã hội của Nhà nước và là nguồn vốn bổ sung cho ngân sách Nhà nước trong việc đầu tư phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, giữ gìn trật tự và ổn định xã hội. - Thứ ba, bảo hiểm nhân thọ là một công cụ hữu hiệu để huy động những nguồn tiền mặt nhàn rỗi ở các tầng lớp dân cư trong xã hội để thực hành tiết kiệm, góp phần chống lạm phát. Xét về mặt sản phẩm, tất cả sản phẩm của bảo hiểm nhân thọ đều có khả năng chống lại ảnh hưởng của lạm phát vì khi tính phí bảo hiểm, công ty bảo hiểm đã áp dụng một tỷ lệ chiết khấu phí, phần lãi này sẽ bù đắp lại phần trượt giá. Khi tham gia bảo hiểm nhân thọ, khách hàng có thể yên tâm về giá trị đồng tiền vì khi tham gia bảo hiểm, số tiền nộp phí bảo hiểm của người tham gia bảo hiểm không phải là nguồn tiền bất động mà là tiền đẻ ra tiền. 16
  22. Số tiền đóng bảo hiểm được công ty bảo hiểm đem đầu tư và lãi đầu tư được trả lại cho bên đóng bảo hiểm dưới hình thức chiết khấu dòng tiền phí bảo hiểm, ngoài ra còn dưới hình thức lãi chia. Một điều cũng cần lưu ý là, khi tham gia bảo hiểm và đóng phí định kỳ, không phải toàn bộ số phí đóng phải chịu ảnh hưởng của lạm phát tương ứng với thời hạn bảo hiểm mà từng phần phí đóng sẽ chịu ảnh hưởng trong những thời hạn khác nhau. Qua đó, chúng ta thấy vai trò to lớn của bảo hiểm nhân thọ trong việc kìm hãm lạm phát. - Thứ tư, bảo hiểm nhân thọ còn góp phần giải quyết một số vấn đề về mặt xã hội như: tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, tăng vốn đầu tư cho việc giáo dục con cái, tạo ra một nếp sống đẹp, tiết kiệm có kế hoạch .Trong môi trường cạnh tranh mạnh mẽ, các công ty bảo hiểm nhân thọ muốn phát triển sản phẩm và mở rộng thị trường của mình thì phải cần đến một hệ thống đại lý có quy mô lớn để giúp tuyên truyền, tư vấn và phân phối các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ của doanh nghiệp đến khách hàng. Khi tổ chức các dịch vụ bảo hiểm nhân thọ, các công ty bảo hiểm nhân thọ còn cần một số lượng lớn các nhân viên sử dụng máy vi tính, nhân viên thống kê, kế toán vì đối tượng và phạm vi rộng, thời gian dài, cho nên phát triển dịch vụ này sẽ tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Trong thời gian vừa qua, thực tế số lượng tại Việt Nam cũng như kinh nghiệm ở các nước khác cho thấy, lực lượng đại lý bảo hiểm nhân thọ sẽ phát triển rất nhanh trong thời gian tới. Việc xây dựng và phát triển lực lượng đại lý, nhân viên của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đã tạo được việc làm cho hàng ngàn lao động, góp phần ổn định anh ninh, trật tự cho xã hội và tăng trưởng kinh tế cho đất nước. Như vậy, có thể nói bảo hiểm nhân thọ vừa là nguồn bổ sung vốn đầu tư phát triển, vừa là công cụ kìm hãm lạm phát hữu hiệu, tạo công 17