Luận văn Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình

pdf 81 trang vuhoa 23/08/2022 9400
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_bao_dam_tranh_tung_trong_xet_xu_so_tham_vu_an_hinh.pdf

Nội dung text: Luận văn Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM DIỆU OANH BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. Vũ Gia Lâm Hà Nội - 2017
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, hoàn toàn do tôi thực hiện. Các đoạn trích dẫn và số liệu được sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao. Tôi cam kết chịu trách nhiệm trước Học viện Khoa học xã hội và trước pháp luật về nội dung cam đoan này Hà Nội, ngày 15 tháng 3 năm 2016 Tác giả luận văn Phạm Diệu Oanh
  3. LỜI CẢM ƠN Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng cảm ơn chân thành nhất và sự cảm kích sâu sắc đến các thầy, các cô đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu hoàn thành luận văn tốt nghiệp. Đặc biệt, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Thầy giáoTS. Vũ Gia Lâm đã hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn này. Tôi xin gửi lời cảm ơn đến TAND hai cấp tỉnh Ninh Bình đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập tài liệu, số liệu thực hiện luận văn này. Trân trọng cảm ơn. Tác giả luận văn Phạm Diệu Oanh
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 7 1.1. Khái niệm bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 7 1.2. Nội dung bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 10 1.3. Ý nghĩa của việc bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 16 Chương 2 QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH 22 2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 22 2.2. Thực trạng bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình 29 Chương 3 GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 47 3.1. Giải pháp lập pháp 47 3.2. Giải pháp khác 61 KẾT LUẬN 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 73
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự BLHS Bộ luật hình sự CQTHTT Cơ quan tiến hành tố tụng CQĐT Cơ quan điều tra HĐXX Hội đồng xét xử HĐND Hội đồng nhân dân MTTQ Mặt trận tổ quốc VKS Viện kiểm sát KSV Kiểm sát viên ĐTV Điều tra viên TANDTC Tòa án nhân dân tối cao.
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây cải cách tư pháp luôn là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta quan tâm chỉ đạo. Tòa án nhân dân giữ vai trò trung tâm trong hoạt động của các cơ quan tư pháp, xét xử được xác định là trọng tâm vì vậy nâng cao chất lượng công tác xét xử để bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, đáp ứng được yêu cầu hội nhập quốc tế là vấn đề cấp thiết đặt ra hiện nay. Để chất lượng công tác xét xử đáp ứng được yêu cầu của xã hội, hạn chế tình trạng xét xử oan, sai; bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm được Đảng, Nhà nước xác định trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 2 tháng 1 năm 2002 của Bộ chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” là văn bản đầu tiên đề cập đến vấn đề tranh tụng đã xác định “Khi xét xử, các tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định”. Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị về “chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” chỉ rõ: “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại phiên tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp”. 1
  7. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 sau khi phân tích những kết quả đạt được, những mặt còn hạn chế sau khi thực hiện các Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 2 tháng 1 năm 2002 của Bộ chính trị về cải cách tư pháp đã chỉ rõ một trong những công việc chính phải làm được từ nay đến năm 2010 là “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Nhận thức của cán bộ, đảng viên về vai trò của hoạt động tư pháp, sự cần thiết phải đẩy mạnh cải cách tư pháp được nâng lên rõ rệt. Việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động tư pháp có nhiều tiến bộ. Nhiều quy định của pháp luật về hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp, thi hành án, luật sư, công chứng, giám định tư pháp đã được sửa đổi, bổ sung theo đúng chủ trương, định hướng lớn nêu trong Chiến lược cải cách tư pháp. Tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp từng bước được kiện toàn và xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ. Chất lượng hoạt động tư pháp được nâng lên rõ rệt. Việc tranh tụng tại phiên tòa bước đầu đạt được một số kết quả tích cực. Tuy nhiên, việc thực hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp đặc biệt là chủ trương bảo đảm và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp vẫn còn nhiều hạn chế, dẫn đến vẫn còn tình trạng án xét xử oan, sai. Nhận thức của cán bộ làm công tác tư pháp ở các cơ quan tư pháp về hoạt động tranh tụng chưa đầy đủ, toàn diện. Việc xác định chức năng của các cơ quan tiến hành tố tụng khi thực hiện việc tranh tụng tại phiên tòa chưa rõ dẫn đến tình trạng Tòa án làm thay chức năng buộc tội của Viện kiểm sát, quyền của người tham gia tố tụng chưa đảm bảo. Thực tiễn đó đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới và có cơ chế đảm bảo cho việc tranh tụng tại phiên tòa. Để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện và bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa, Hiến pháp năm 2013 (sửa đổi) đã xác định Tòa án là cơ quan xét xử , thực hiện quyền tư pháp đồng thời ghi nhận nguyên tắc tranh tụng tại khoản 5 Điều 103 “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”. Quy định này của Hiến pháp là 2
  8. tư tưởng chỉ đạo và là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động tố tụng của các cơ quan tư pháp. Tại Điều 26 Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) năm 2015 đã quy định nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Theo đó Bộ luật tố tụng hình sự đã có những quy định mới, sửa đổi, bổ sung nhiều quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 nhằm đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa xét xử, thực hiện nhiệm vụ mà Bộ luật đã đề ra “bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. Hiện nay, BLTTHS năm 2015 chưa có hiệu lực thi hành, việc xét xử của Tòa án các cấp vẫn áp dụng quy định của BLTTHS năm 2003 và tinh thần quy định của Hiến pháp về bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Từ hạn chế trong thực tiễn, bất cập trong quy định về tranh tụng trong BLTTHS năm 2003 và những điểm mới trong BLTTHS năm 2015 về bảo đảm tranh tụng, tác giả đã chọn đề tài “Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình” làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào công tác nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của vấn đề bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tranh tụng tại phiên tòa là một vấn đề không mới trong khoa học pháp lý, đặc biệt sau khi các Nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách tư pháp xác định hoạt động tranh tụng là một nhiệm vụ trọng tâm, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu của các chuyên gia, các nhà khoa học về vấn đề tranh tụng trên các phương diện khác nhau cả về lý luận cũng như thực tiễn. Cụ thể như: - Công trình nghiên cứu về “Về nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự” của TS Nguyễn Văn Hiển do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản năm 2011. Công trình đã đề cập đến: những vấn đề chung về nguyên tắc tranh tụng 3
  9. trong TTHS; các quy định về tranh tụng trong pháp luật TTHS Việt Nam và thực tiễn tranh tụng trong TTHS Việt Nam - phương hướng xây dựng và áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam. - Luận văn thạc sỹ luật học của Thạc sỹ Nguyễn Mai Chi về “Tranh luận tại phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư pháp” năm 2011. Trong luận văn tác giả đã đề cập đến mô hình tố tụng Việt Nam và đặc điểm của tranh tụng trong TTHS Việt Nam; thực trạng tranh tụng tại phiên tòa xét xử vụ án hình sự và các giải pháp nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp. - Luận văn thạc sỹ luật học của Thạc sỹ Ngô Hoài Phong về nguyên tắc tranh tụng theo pháp luật TTHS Việt Nam từ thực tiễn Đà Nẵng năm 2014. Trong luận văn tác giả đã khái quát chung về nguyên tắc tranh tụng theo pháp luật tố tụng hình sự, nguyên tắc tranh tụng ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được thể hiện trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam qua các thời kỳ; thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật theo nguyên tắc tranh tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại Đà Nẵng và đề ra phương hướng, giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Ngoài ra còn có nhiều bài báo, tạp chí, đề cập đến vấn đề tranh tụng tại phiên tòa ở những phương diện khác nhau như: Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa của tác giả PGS-TS Trần Văn Độ đăng trên tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2004; Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh tụng trong tố tụng hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp của TS Nguyễn Thái Phúc đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8/2008, Một số kiến nghị góp phần thực hiện có hiệu quả nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa hình sự của tác giả Th.S Nguyễn Thị Thúy Hằng đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 11/2014 Những bài viết, công trình nghiên cứu trên là những tài liệu quý giá giúp tác giả nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn về vấn đề tranh tụng tại phiên tòa. Tuy nhiên, cho đến nay theo tác giả được biết chưa có công trình nghiên cứu nào về vấn đề bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự gắn liền với thực tiễn xét xử ở một địa phương, chính vì vậy tác giả mạnh dạn nghiên cứu đề tài này để góp phần 4
  10. nghiên cứu vấn đề tranh tụng được toàn diện hơn, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cải cách tư pháp. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: làm rõ một số vấn đề lý luận và những quy định của pháp luật liên quan đến bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; thực trạng bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa, chỉ rõ những kết quả đạt được cùng những bất cập, hạn chế; nguyên nhân của những bất cập hạn chế trong bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm bảo đảm và nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm. Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ đặt ra với luận văn: - Làm rõ khái niệm, ý nghĩa, nội dung của bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. - Tìm hiểu những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. - Đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những vướng mắc trong thực tế áp dụng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài: tranh tụng trong xét xử và bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; quy định của BLTTHS năm 2003 (so sánh với quy định của BLTTHS năm 2015) về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và thực trạng bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa trong những năm gần đây. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về bảo đảm tranh tụng ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình từ năm 2011 đến năm 2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, theo đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Ngoài ra. Luận văn còn sử dụng một số phương pháp khác như: phương pháp phân tích được sử 5
  11. dụng nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo đảm tranh tụng; phương pháp tổng hợp được dùng để tổng hợp các vấn đề nghiên cứu qua đó đưa ra những nhận định và kết luận chung; phương pháp so sánh đối chiếu và thống kê được dùng để thống kê số liệu qua nhiều năm, qua đó so sánh, đối chiếu số liệu nhằm tạo cơ sở cho các nhận xét, kết luận và kiến nghị. Việc kết hợp giữa các phương pháp trên nhằm làm rõ những vấn đề lý luận chung, những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành và thực trạng bảo đảm tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện dưới góc độ pháp lý về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình vừa có ý nghĩa về mặt lí luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn như sau: - Về lý luận: Luận văn góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa. Đồng thời góp phần hoàn thiện lí luận về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự hiện nay. - Về thực tiễn: Luận văn hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo quan trọng trong thực tiễn hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng ở tỉnh Ninh Bình nói chung và các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung trong quá trình thụ lý, giải quyết các vụ án hình sự. Luận văn sẽ góp phần tích cực trong việc nâng cao hiệu quả của các cơ quan tiến hành tố tụng tại tỉnh Ninh Bình. Luận văn cũng là tài liệu tham khảo quan trọng dùng trong quá trình học tập và nghiên cứu của các cơ sở đào tạo luật ở nước ta. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Phần nội dung Luận văn gồm ba chương: - Chương 1: Một số vấn đề chung về bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự - Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành và thực trạng bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình - Chương 3: Giải pháp bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 6
  12. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự Để đưa ra khái niệm bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, trước hết phải nghiên cứu làm rõ các khái niệm tranh tụng, tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Tranh tụng là tư tưởng xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử pháp luật thế giới. Sự ra đời và phát triển của tranh tụng trong tố tụng gắn liền với sự hình thành và phát triển của các tư tưởng dân chủ, tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Ở nước ta, thuật ngữ tranh tụng được sử dụng khi có Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm khoa học mang tính chất pháp lý, thể hiện sự nhận thức đầy đủ về “tranh tụng”. Hiện nay, tùy thuộc vào góc độ tiếp cận, nghiên cứu đang tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này. Theo từ điển tiếng việt tranh tụng có nghĩa là sự kiện cáo nhau [26, tr.794] giữa hai người (bên nguyên và bên bị) có lập trường tương phản yêu cầu Tòa án phân xử. Theo từ điển Hán Việt thì tranh tụng được ghép bởi từ “tranh luận” và “tố tụng” Theo định nghĩa của từ điển Luật học năm 2006 “Tranh tụng là hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên tòa xét xử, được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội), có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên kia, dưới sự điều khiển, quyết định của Tòa án với vai trò trung gian, trọng tài” [27, tr.707,708]. Trong khoa học luật tố tụng, khái niệm tranh tụng có thể được sử dụng theo các nghĩa khác nhau: Thứ nhất, tranh tụng như là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự (là quan điểm tư tưởng chỉ đạo chi phối đến hành vi của các chủ thể tham gia tố tụng và 7
  13. quá trình tố tụng). Dưới góc độ này, “tranh tụng được nhìn nhận như một quá trình tồn tại, vận động, đấu tranh nhằm phủ định lẫn nhau giữa hai chức năng cơ bản (chức năng buộc tội và chức năng bào chữa) là hai chức năng có định hướng ngược chiều nhau, đối trọng nhau, có quyền ngang nhau trong việc bảo vệ ý kiến, lập luận, lợi ích và phản bác ý kiến, lập luận và lợi ích của phía bên kia mà đỉnh điểm của quá trình này diễn ra tại phiên tòa sơ thẩm trước Tòa án có vai trò là trọng tài [8, tr.2]; Thứ hai, tranh tụng như là một mô hình (kiểu, hệ) tố tụng như các nước theo hệ thống Thông luật (common law). Theo đó, tranh tụng là mô hình tố tụng mà trong đó có sự tranh luận bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội nhằm tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Trong quá trình tranh luận bình đẳng này, “bên buộc tội (điều tra, truy tố) có nghĩa vụ phải chứng minh, còn bên bị buộc tội (bị can, bị cáo và luật sư của họ) có quyền (chứ không có nghĩa vụ phải chứng minh những sự việc sảy ra liên quan đến vụ án) ” [29, tr.14,15]. Căn cứ vào đặc thù của thực tiễn xã hội, mô hình tố tụng ở nước ta là mô hình tố tụng “thẩm vấn” có đan xen yếu tố “tranh tụng”. Thứ ba, tranh tụng có thể hiểu là hoạt động tố tụng, là quá trình các bên xuất trình chứng cứ, trình bày lý lẽ, căn cứ quy định của pháp luật để tranh luận, chứng minh nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án; trong quá trình tranh tụng tại tòa, Tòa án với vai trò là người cầm cân công lý, độc lập với các bên, đứng ra phân xử và đưa ra những phán quyết đúng pháp luật, chủ yếu dựa trên việc nghiên cứu hồ sơ vụ án kết hợp với kết quả tranh tụng trực tiếp tại phiên tòa. Thông qua quá trình tranh tụng tại Tòa án mà Hội đồng xét xử với vai trò cầm cân công lý sau khi xem xét, thẩm định toàn diện các chứng cứ, tình tiết, các lý lẽ trình bày của các bên, sẽ làm rõ các chứng cứ, tình tiết có trong hồ sơ vụ án; đồng thời làm rõ các chứng cứ, tình tiết mới được phát hiện tại phiên tòa, nghiên cứu, xem xét để tìm ra bản chất của vụ án, làm cơ sở cho việc ra phán quyết đúng pháp luật. Dưới góc độ nghiên cứu của đề tài luận văn, tranh tụng được hiểu theo nghĩa thứ ba này. Về khái niệm xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Để làm rõ khái niệm này cần hiểu thế nào là xét xử. Theo Từ điển luật học: “xét xử là hoạt động xem xét, đánh 8
  14. giá bản chất pháp lý của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ việc, từ đó nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ trái hay không trái pháp luật của vụ việc” [ 27, tr 869]. Trong TTHS, giai đoạn xét xử được coi là trọng tâm, và trong các cấp xét xử thì cấp sơ thẩm được xem là quan trọng nhất bởi đây là giai đoạn mà toàn bộ vụ án và mọi vấn đề liên quan đến vụ án được xem xét lần đầu và quyết định. Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của quá trình tố tụng, trong đó Tòa án có thẩm quyền, sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, lần đầu tiên đưa vụ án hình sự ra xét xử bằng phiên tòa nhằm xác định có hay không có tội phạm xảy ra, một người có phải là người phạm tội để từ đó đưa ra phán quyết bằng bản án, quyết định [6, tr.310]. Xét xử sơ thẩm là giai đoạn trọng tâm của quá trình giải quyết bất kỳ vụ án hình sự nào. Từ phân tích trên cho thấy, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là việc Tòa án xét xử lần đầu đối với toàn bộ vụ án, quyết định bị cáo có tội hay không có tội và áp dụng trách nhiệm hình sự, giải quyết việc bồi thường thiệt hại (nếu có). Như vậy, khái niệm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được hiểu “là việc các chủ thể tố tụng đưa ra quan điểm, chứng cứ của mình và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm để bảo vệ quan điểm của mình, bác bỏ quan điểm của bên đối lập nhằm làm sáng tỏ sự thật của vụ án với sự trọng tài của Tòa án (HĐXX)”. Về khái niệm bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Trước hết trên phương diện ngôn ngữ học, theo từ điển tiếng Việt, “bảo đảm” là tạo điều kiện cần thiết để thực hiện được những nguyên tắc; bảo đảm theo nghĩa chung nhất là “làm cho chắc chắn thực hiện được những gì cần thiết, là trách nhiệm của mọi chủ thể (cá nhân, tổ chức) phải làm cho quyền, lợi ích của chủ thể bên kia chắc chắn được thực hiện, được giữ gìn” [26, tr 40]. Bảo đảm tranh tụng mở ra cơ hội cho các bên tham gia tố tụng. Bên buộc tội, bên bào chữa đều có quyền chủ động xác định các vấn đề cần chứng minh, trên cơ sở đó có thể tự tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ cần thiết, triệu tập nhân chứng để phản bác quan điểm của đối phương và khẳng định lý lẽ của mình trước tòa. Mọi chứng cứ, lý lẽ được thu thập, xuất trình tại phiên tòa theo đúng trình tự pháp lý 9
  15. được Tòa án chấp nhận sẽ là căn cứ cho phán quyết cuối cùng mà không phân biệt do bên nào đưa ra. Bảo đảm tranh tụng tạo điều kiện cho bên buộc tội mà chủ yếu là cơ quan điều tra và Viện kiểm sát không chỉ thu thập chứng cứ buộc tội mà còn có nghĩa vụ thu thập chứng cứ gỡ tội hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị buộc tội; bảo đảm việc thu thập chứng cứ phản bác sự buộc tội, chứng minh vô tội, giảm nhẹ tội hoặc trách nhiệm hình sự, trách nhiệm bồi thường dân sự trong vụ án hình sự của người bị buộc tội do bên bào chữa thực hiện. Như vậy, bảo đảm tranh tụng thực chất là việc tạo điều kiện cho các chủ thể tham gia tố tụng vận dụng hết khả năng của mình trước Tòa án để bên buộc tội khẳng định việc người bị buộc tội phải chịu trách nhiệm hình sự vì đã thực hiện tội phạm cũng như việc phủ nhận các cáo buộc, chứng minh sự vô tội hoặc các tình tiết giảm nhẹ tội, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị buộc tội từ phía bên gỡ tội. Từ những phân tích trên, chúng tôi đưa ra khái niệm bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự như sau: Bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là việc tạo các điều kiện cần thiết cho các chủ thể tố tụng đưa ra chứng cứ, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ bình đẳng công khai tại phiên tòa sơ thẩm để bảo vệ quan điểm buộc tội, gỡ tội của mình góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác. 1.2. Nội dung bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự 1.2.1. Bảo đảm về mặt pháp lý Bảo đảm về pháp lý từ quy định của Hiến pháp. Tranh tụng xuất hiện từ khi xuất hiện các chức năng buộc tội và chức năng gỡ tội cho đến khi mâu thuẫn được giải quyết. Nội dung của tranh tụng đa dạng, có thể là sự cọ sát, phản biện của các bên về bản chất, nội dung của vụ việc, cũng có thể là các vấn đề về trình tự, thủ tục, quy định của tố tụng được biểu hiện tập trung nhất trong giai đoạn xét xử. Hình thức tranh tụng biểu hiện thông qua việc bên buộc tội và bên bào chữa đưa ra ý kiến, yêu cầu hoặc khiếu nại để Tòa án xem xét các quyết định, hành vi, thủ tục tố tụng, trên cơ sở đó đưa ra quyết định cuối cùng. Tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 10
  16. năm 2013 đã quy định “nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để pháp điển hóa pháp luật tố tụng hình và làm cho tranh tụng được bảo đảm thực hiện trong thực tiễn tố tụng. Bảo đảm về pháp lý từ quy định của pháp luật TTHS, pháp luật tố tụng hình sự (BLTTHS) quy định rõ những nguyên tắc cơ bản của quá trình tố tụng thể hiện tư tưởng của Hiến pháp; quy định vai trò, vị trí, chức năng của các CQTHTT và những người tham gia tố tụng tạo cơ sở pháp lý cho bảo đảm tranh tụng trong TTHS, cụ thể như: Bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật (Điều 5 BLTTHS) và không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 9). Theo đó, mọi công dân không phân biệt giới tính, dân tộc, tuổi tác đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau trước pháp luật và nhận được sự đối xử như nhau khi chưa có sự phán quyết của Tòa án. Các Điều 10, 11, 33, 34, 35, 36, 37, 38, 39 và điều 40 của BLTTHS quy định các CQTHTT bao gồm CQĐT, VKS, TAND có trách nhiệm xác minh sự thật của vụ án và nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của những người THTT. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Bộ luật TTHS cũng quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan THTT và người THTT trong hoạt động tranh tụng. Điều 19 quy định: Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án; tạo điều kiện cho việc làm rõ bản chất của vụ việc, những vấn đề cần giải quyết trong vụ án như: có hành vi phạm tội hay không? Thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội? Ai là người thực hiện hành vi phạm tội? Do cố ý hay vô ý? Có năng lực trách nhiệm hình sự hay không? Mục đích, động cơ 11
  17. phạm tội? Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Bộ luật TTHS còn có những quy định nhằm mục đích bảo đảm tính hợp pháp, đúng đắn của các quyết định tố tụng, các thủ tục tố tụng, các hành vi tố tụng và các hành vi khác liên quan đến thủ tục tố tụng như: liên quan đến ý kiến xin thay đổi một thành viên của HĐXX, liên quan đến việc xin triệu tập thêm người làm chứng, đưa thêm vật chứng ra xem xét tại tòa, hoãn phiên tòa Tạo điều kiện cho tất cả các chủ thể có thể tham gia tranh tụng một cách công bằng, đặc biệt là tạo môi trường tranh tụng có tính chất bình đẳng cho bên buộc tội và bên bào chữa. 1.2.2. Bảo đảm về cơ chế xét xử Bộ luật TTHS năm 2003 đã ghi nhận nguyên tắc “khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” phán quyết của HĐXX liên quan đến số phận và vận mệnh con người, do đó yêu cầu độc lập trong xét xử là một trong những yêu cầu tiên quyết trong tố tụng nói chung và TTHS nói riêng. Trong TTHS, chức năng tài phán thuộc về Tòa án, xét về bản chất trong đó không bao gồm việc buộc tội hay bào chữa. Tòa án được khẳng định giữ vị trí, vai trò của người trọng tài trung lập đứng giữa các bên tranh tụng. Tòa án là cơ quan có thẩm quyền nhân danh Nhà nước thực hiện hoạt động xét xử, lắng nghe các luận điểm của các bên và xem xét tính hợp pháp, các giá trị chứng minh của các chứng cứ được đưa ra nhằm xác định sự thật của vụ án. Trên cơ sở các tình tiết của vụ án được tái hiện qua các chứng cứ, xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội và đối chiếu với quy định của pháp luật, Tòa án ra bản án kết tội và áp dụng hình phạt đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội hoặc bản án tuyên bố vô tội, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt đối với người bị buộc tội. Với chức năng tài phán, Tòa án là người duy trì trật tự phiên tòa, giám sát và điều khiển quá trình tranh tụng giữa các bên, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật TTHS của tất cả các chủ thể tham gia phiên tòa. Tòa án trong vai trò của người trọng tài có nhiệm vụ bảo đảm sự bình đẳng được pháp luật quy định giữa bên buộc tội và bên bào chữa, tạo điều kiện phát huy tính tích cực, chủ động của các chủ thể tham gia tranh tụng nhằm làm sáng tỏ các chứng 12
  18. cứ, tình tiết, hành vi để xác định sự thật khách quan của vụ án. Nhiệm vụ của Tòa án là đánh giá chứng cứ và ra phán quyết cuối cùng khẳng định hoặc phủ nhận sự buộc tội, áp dụng trách nhiệm hình sự, hình phạt và cách thức thi hành hình phạt. Tòa án là người trọng tài, do đó cần phải thể hiện sự khách quan, độc lập với các bên tranh tụng tại phiên tòa, không thiên vị, là cơ chế bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong quá trình xét xử vụ án hình sự tại phiên tòa, đảm bảo xác định được sự thật khách quan của vụ án. Việc bảo đảm cơ chế xét xử có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thực hiện bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; hạn chế và loại bỏ sự yếu thế của một bên nào đó làm cho phiên tòa chỉ còn mang tính chất hình thức, các chứng cứ được xem xét một cách phiến diện, ảnh hưởng đến quyết định của Tòa án. Bảo đảm cơ chế xét xử độc lập, trọng tài của Tòa án giúp cho Tòa án (HĐXX) độc lập với sự tác động của các yếu tố bên ngoài, bao gồm: các cơ quan, tổ chức, cá nhân và những yêu cầu của người tham gia tố tụng. Tòa án đưa ra phán quyết một cách độc lập, căn cứ vào các quy định của pháp luật và các chứng cứ đã được xem xét tại tòa. Sự độc lập còn được thể thiện trong mối quan hệ giữa các cấp Tòa án với nhau. Tòa án cấp trên không được can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án cấp dưới và ngược lại. Bảo đảm cơ chế xét xử nhằm loại trừ tất cả các trường hợp gây tác động, ảnh hưởng tới quá trình áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ án hình sự. 1.2.3. Bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong tranh tụng Khi tham gia TTHS, bên buộc tội và bên bào chữa có địa vị pháp lý ngang nhau, có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Phiên tòa xét xử vụ án phải có mặt đầy đủ bên buộc tội, bên bào chữa. Bảo đảm sự bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong tranh tụng cũng chính là bảo vệ quyền của bị cáo. Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, để thực hiện quyền tự bào chữa nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và chống lại sự buộc tội, người bị buộc tội không chỉ là một 13