Luận văn Bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại các tổ chức tín dụng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

pdf 100 trang vuhoa 23/08/2022 10020
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại các tổ chức tín dụng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_bao_dam_tien_vay_bang_giay_to_co_gia_tai_cac_to_chu.pdf

Nội dung text: Luận văn Bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại các tổ chức tín dụng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

  1. Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ 7 BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG GIẤY TỜ CÓ GIÁ TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG 1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại giấy tờ có giá 7 1.1.1. Khái niệm giấy tờ có giá 7 1.1.2. Đặc điểm của giấy tờ có giá 11 1.1.3. Phân loại giấy tờ có giá và ý nghĩa của việc phân loại 16 1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại bảo đảm tiền vay bằng giấy 22 tờ có giá tại tổ chức tín dụng 1.2.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức 22 tín dụng 1.2.2. Đặc điểm của bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ 23 chức tín dụng 1.2.2.1. Là biện pháp bảo đảm được thiết lập nhằm bảo đảm thực 23 hiện nghĩa vụ trả nợ tiền vay của bên vay vốn đối với bên cho vay là tổ chức tín dụng 1.2.2.2. Tài sản dùng để bảo đảm tiền vay là giấy tờ có giá 25 1.2.2.3. Một bên chủ thể trong giao dịch bảo đảm tiền vay bằng giấy 26 tờ có giá là tổ chức tín dụng 1.3. Vai trò của bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức 28 tín dụng 1.4. Nội dung của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có 29 giá tại tổ chức tín dụng 1.4.1. Khái quát pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá 29 tại tổ chức tín dụng 1.4.2. Nội dung của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có 31 4
  2. giá tại tổ chức tín dụng 1.4.2.1. Quy định của pháp luật về loại giấy tờ có giá được dùng 32 làm tài sản bảo đảm 1.4.2.2. Quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục nhận tài sản bảo 33 đảm tiền vay là giấy tờ có giá 1.4.2.3. Quy định của pháp luật về hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng 34 giấy tờ có giá 1.4.2.4. Quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm là giấy tờ 36 có giá 1.4.2.5. Quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp liên quan 37 đến bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY 39 BẰNG GIẤY TỜ CÓ GIÁ TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM 2.1. Điều kiện, trình tự thủ tục nhận tài sản bảo đảm tiền vay 39 bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng 2.1.1. Các điều kiện khi tổ chức tín dụng nhận giấy tờ có giá làm 39 tài sản bảo đảm tiền vay 2.1.1.1. Điều kiện về chủ thể - bên bảo đảm 39 2.1.1.2. Điều kiện về giấy tờ có giá làm tài sản bảo đảm 43 2.1.2. Trình tự, thủ tục nhận tài sản bảo đảm là giấy tờ có giá tại tổ 50 chức tín dụng 2.2. Phạm vi bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá 51 2.3. Hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức 56 tín dụng 2.3.1. Loại hợp đồng bảo đảm được ký kết 56 2.3.2. Đối tượng của hợp đồng bảo đảm 56 2.3.3. Các bên chủ thể của hợp đồng bảo đảm 57 2.3.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo đảm 58 2.3.4.1. Quyền và nghĩa vụ của bên cầm cố 59 2.3.4.2. Quyền và nghĩa vụ của bên nhận cầm cố 59 5
  3. 2.3.5. Hiệu lực của hợp đồng bảo đảm 60 2.3.6. Công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm 62 2.4. Chuyển giao và quản lý tài sản bảo đảm là giấy tờ có giá 63 2.5. Xử lý tài sản bảo đảm là giấy tờ có giá 67 2.6. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp về bảo đảm tiền vay 70 bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng Chương 3: MỘT SỐ PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN 77 THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG GIẤY TỜ CÓ GIÁ TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM 3.1. Các yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền 77 vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam 3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay 81 bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam 3.3. Một số kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm 82 tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam 3.3.1. Sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản pháp luật về bảo 83 đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam 3.3.2. Xây dựng cơ chế đồng bộ nhằm hỗ trợ, hướng dẫn, quản lý 90 giám sát và bảo đảm thực hiện trên thực tế bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam KẾT LUẬN 92 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 94 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 6
  4. BLDS : Bộ luật Dân sự CCCN : Công cụ chuyển nhượng GTCG : Giấy tờ có giá NHNN : Ngân hàng Nhà nước TCTD : Tổ chức tín dụng MỞ ĐẦU 7
  5. 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Sau 11 năm đàm phán không mệt mỏi với rất nhiều cam kết song phương và đa phương cùng các nước thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tháng 11 năm 2006 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức này. Đây là một dấu mốc vô cùng quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Vấn đề hội nhập vào nền kinh tế thế giới đã mở ra nhiều cơ hội to lớn nhưng cũng đặt ra vô vàn thách thức trong điều kiện mới. Khi nền kinh tế thế giới có nhiều sự thay đổi đến "chóng mặt", "lúc nóng", "lúc lạnh" sẽ ảnh hưởng ngay đến nền kinh tế Việt Nam. Chính vì vậy, việc điều tiết nền kinh tế thông qua các công cụ tài chính ngân hàng luôn được Đảng và Nhà nước ta "quan tâm" đặt lên hàng đầu. Thông qua các công cụ tài chính ngân hàng, nguồn tiền từ các tổ chức tín dụng (TCTD) được thúc đẩy "bơm" ra thị trường hoặc yêu cầu "thắt chặt" lại. Để thực hiện được mục tiêu này thì tất yếu phải thông qua việc điều tiết hoạt động tín dụng (cho vay) của các tổ chức tín dụng. Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống kinh tế xã hội. Việc đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay của TCTD ở Việt Nam là rất cần thiết, vì chỉ cần một TCTD có dấu hiệu không tốt sẽ có khả năng ảnh hưởng "dây chuyền" đến hoạt động của các TCTD khác, từ đó sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế xã hội. Trong quan hệ cho vay, hợp đồng vay giữa TCTD và bên vay được thiết lập thông qua quá trình thương thảo giữa hai bên và là kết quả của quá trình TCTD thực hiện thẩm định bên vay. Khi TCTD đồng ý "cấp vốn" cho bên vay có nghĩa là TCTD đã tin tưởng và tín nhiệm vào thiện chí cũng như khả năng trả nợ của bên vay. Tuy nhiên, nếu không có những thiết chế, những công cụ đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên vay, dự liệu trường 8
  6. hợp bên vay không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ, thì TCTD sẽ tự đặt mình trước những "nguy cơ" khó lường khi chính TCTD cũng đi vay (nhận tiền gửi của khách hàng gửi tiền) để cho vay. Một trong những công cụ để đảm bảo bên vay thực hiện nghĩa vụ trả nợ mà TCTD áp dụng vào hoạt động cho vay đó là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ tiền vay hay còn gọi là bảo đảm tiền vay. Trong hợp đồng cho vay, ngoài việc thỏa thuận về áp dụng các chế tài như thu hồi nợ trước hạn, lãi suất nợ quá hạn, lãi suất nợ lãi quá hạn , TCTD còn yêu cầu bên vay thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay. Bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá (GTCG) là một trong những biện pháp bảo đảm được pháp luật công nhận, bảo hộ, được TCTD và bên vay lựa chọn áp dụng. Hiện nay, pháp luật điều chỉnh về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam được quy định tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau nhưng mới chỉ là những quy định mang tính chất chung chung như Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005, Luật Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, Luật Các công cụ chuyển nhượng (CCCCN) năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Chứng khoán năm 2006, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (sau đây gọi tắt là Nghị định số 163), Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23 tháng 7 năm 2010 của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm (sau đây gọi tắt là Nghị định số 83), Quy chế phát hành giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng năm 2008 (sau đây gọi tắt Quy chế phát hành GTCG), Pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD còn thiếu những quy định, hướng dẫn cụ thể, thống nhất dẫn đến gặp rất nhiều khó khăn trong việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn. Vì vậy, với mong muốn tìm hiểu những vấn đề pháp lý và thực tiễn của bảo đảm tiền vay bằng GTCG để góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này, tác giả quyết định lựa chọn nghiên cứu về đề tài 9
  7. "Bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại các tổ chức tín dụng - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Dưới góc độ luật học, pháp luật về GTCG và bảo đảm bằng GTCG đã được đề cập đến tại một số công trình nghiên cứu khoa học như: - Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Anh Thơ, bảo vệ thành công năm 2006 về: "Giấy tờ có giá - Một loại tài sản trong quan hệ pháp luật dân sự"; - Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Thị Hoàng Điệp, bảo vệ thành công năm 2010 về: "Giấy tờ có giá - Một loại tài sản theo quy định pháp luật hiện hành"; - Đề tài nghiên cứu khoa học của nhóm nghiên cứu khoa học về: "Một số kiến nghị nhằm triển khai và phát triển nghiệp vụ cầm cố chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam". Bên cạnh đó, một số bài trao đổi, nghiên cứu liên quan đến giao dịch bảo đảm bằng GTCG được đăng tải trên một số trang web và tạp chí chuyên ngành tài chính ngân hàng như: - Bài viết:"Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế" của tác giả Nguyễn Văn Phương đăng trên Tạp chí Ngân hàng số 11/2007; - Bài viết: "Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại: một số nhận định từ góc độ pháp lý đến thực tiễn" của ThS. Nguyễn Thùy Trang đăng tải trên trang web của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngoài ra, một số khía cạnh pháp lý liên quan đến nghiệp vụ cho vay trên cơ sở có bảo đảm bằng cầm cố GTCG, cầm cố chứng khoán tại các TCTD cũng được nhiều bài báo viết, báo điện tử đăng tải. 10
  8. Nhưng, các công trình nghiên cứu, các bài trao đổi, bài viết trên đây chỉ mới dừng lại ở việc phân tích GTCG là một loại tài sản trong quan hệ pháp luật dân sự, phân tích về biện pháp bảo đảm bằng GTCG dưới góc độ của một loại GTCG cụ thể như chứng khoán, hay chỉ mới dừng lại phân tích về một số nhầm lẫn liên quan đến nhận sổ tiết kiệm làm tài sản bảo đảm như là một loại GTCG. Qua quá trình tra cứu tài liệu cho thấy, hiện chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về biện pháp bảo đảm tiền vay bằng GTCG. Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tác giả đã lựa chọn đề tài nghiên cứu để tìm hiểu một cách đầy đủ, toàn diện về lý luận và thực tiễn áp dụng bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Mục đích của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD, từ đó thấy được những kết quả cũng như những vấn đề còn tồn tại, nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại đó và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Với mục đích như trên, các nhiệm vụ phải giải quyết của luận văn là: - Làm rõ những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại tổ chức tín dụng như: khái niệm, đặc điểm, phân loại GTCG với tư cách là một tài sản bảo đảm; khái niệm, đặc điểm, phân loại, vai trò của bảo đảm tiền vay bằng GTCG; nội dung pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG. - Nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam qua việc đưa ra những nhận định khái quát và cụ thể những mặt được, những mặt hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành và thực tế áp dụng bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam. - Đưa ra định hướng và những kiến nghị, đề xuất, giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam. 11
  9. 4. Phạm vi của việc nghiên cứu đề tài Luận văn tập trung nghiên cứu pháp luật hiện hành điều chỉnh về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam đặt trong mối quan hệ với pháp luật về GTCG và các văn bản pháp lý chuyên ngành tài chính ngân hàng điều chỉnh hoạt động cho vay của TCTD. Từ đó, làm nổi bật các đặc trưng của bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD so với các biện pháp bảo đảm dân sự khác và so với các biện pháp bảo đảm tiền vay khác. Đồng thời nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về vấn đề này, để phát hiện các tồn tại, bất cập và kiến nghị phương hướng khắc phục, hoàn thiện. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài Với mục đích triển khai những nội dung cơ bản của luận văn, tác giả đã vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các phương pháp cụ thể như phân tích, tổng hợp, giải thích, so sánh để lý giải những vấn đề đặt ra. 6. Những đóng góp mới của đề tài Là công trình nghiên cứu pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật một cách cụ thể, luận văn có những đóng góp mới là: - Trình bày, phân tích một cách khoa học và có hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD. - Nêu và phân tích nguyên nhân, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam; tìm hiểu và phân tích các tranh chấp về bảo đảm tiền vay bằng GTCG thường phát sinh trong hoạt động cho vay có bảo đảm bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam. - Luận văn kiến nghị, đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng GTCG tại TCTD ở Việt Nam nhằm góp phần xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, mang tính khả thi. 12
  10. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng. Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam. Chương 3: Một số phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng giấy tờ có giá tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam. 13
  11. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG GIẤY TỜ CÓ GIÁ TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG 1.1. Khái niệm, đặc điểm, phân loại giấy tờ có giá 1.1.1. Khái niệm giấy tờ có giá Dưới góc độ luật học, khi nghiên cứu một vấn đề, chúng ta không thể bỏ qua các khái niệm pháp lý liên quan đến vấn đề đó. Vì vậy, một khi đã đề cập đến giao dịch đảm bảo tiền vay bằng GTCG, đương nhiên phải đề cập đến khái niệm về GTCG. "Giấy tờ có giá" là thuật ngữ khá quen thuộc thường được sử dụng trong hoạt động huy động vốn và cho vay của các TCTD. Ngoài ra, một số thuật ngữ khác cũng thường xuyên được đề cập đến như cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, hối phiếu, chứng khoán, công cụ chuyển nhượng . Vậy, GTCG là gì? Cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, chứng khoán, CCCN có phải là GTCG hay không? Theo nghĩa chung nhất, "giấy tờ có giá nói chung được hiểu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, trong đó xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định (tổ chức, cá nhân) xét trong mối quan hệ pháp lý với các chủ thể khác" [32]. Trên phương diện kinh tế, GTCG là một loại hàng hóa được mua bán, trao đổi trên thị trường tiền tệ, gồm rất nhiều loại như trái phiếu, tín phiếu, công trái do Chính phủ phát hành; cổ phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu, tín phiếu và các GTCG khác do TCTD và các doanh nghiệp khác phát hành; Xét trên phương diện pháp lý, giấy tờ có giá được quy định tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau. 14
  12. Trên thế giới, văn bản đầu tiên quy định về GTCG ở dạng hối phiếu ra đời vào năm 1603 đó là Pháp lệnh Humburg. Đây là pháp lệnh được ban hành trên cơ sở tập quán thương mại về phát hành và sử dụng thương phiếu. Năm 1874, Pháp lệnh chung về hối phiếu Đức đã được tập hợp hóa từ 55 pháp lệnh hối phiếu của từng bang riêng rẽ. Đến năm 1882, Vương Quốc Anh ban hành Luật hối phiếu (Bill of Exchange Act 1882). Sau năm 1930, năm ký kết công ước Giơ-ne-vơ về hối phiếu một loạt quốc gia đã lần lượt ban hành luật hối phiếu của quốc gia mình cho dù có gia nhập hay không gia nhập Công ước 1930 về hối phiếu. Đến năm 1988, Hiệp ước thống nhất về hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ quốc tế đã được Ủy ban Luật thương mại Liên hợp quốc (gọi tắt là UNCITRAL) soạn thảo và được Đại Hội đồng Liên Hợp quốc thông qua trong khóa họp toàn thể lần thứ 43 ngày 9/12/1988. Ở Việt Nam, khái niệm GTCG hiện đang được đề cập tại nhiều văn bản pháp luật thực định. Bộ luật Dân sự Việt Nam quy định về GTCG với tư cách là một loại tài sản dùng trong các giao dịch dân sự. Theo đó, Điều 172 BLDS năm 1995 trước đây quy định: "Tài sản bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản", Điều 163 BLDS năm 2005 quy định: "Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" [19, Điều 163]. Theo Khoản 9 Điều 3 Nghị định số 163 thì: "giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được thành tiền và được phép giao dịch" [3, Khoản 9 Điều 3]. Như vậy, khái niệm GTCG được quy định dưới dạng liệt kê các loại giấy tờ được coi là GTCG, được dùng làm tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Giấy tờ có giá là tên gọi chung của các loại giấy tờ như cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, và những loại giấy tờ khác thỏa mãn hai điều kiện: trị giá được thành tiền và được phép giao dịch. 15
  13. Luật NHNN với tư cách là đạo luật quy định về tổ chức, hoạt động của NHNN đã định nghĩa về GTCG dưới góc độ là một loại giấy tờ do các tổ chức phát hành để huy động vốn và được NHNN chấp nhận như một công cụ để chiết khấu, hoặc chấp nhận như một loại tài sản bảo đảm trong trường hợp NHNN cho các TCTD vay vốn hoặc NHNN mua bán GTCG đó thông qua nghiệp vụ thị trường mở theo đó giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác (khoản 8 Điều 6). Trong trường hợp các TDTD phát hành GTCG để huy động vốn, khái niệm GTCG được đề cập tại Quy chế phát hành GTCG. Theo Khoản 1 Điều 4 Quy chế này thì: "Giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa tổ chức tín dụng và người mua" [12, Khoản 1 Điều 4]. Cũng quy định về hoạt động huy động vốn của các tổ chức phát hành, Luật Chứng khoán đã xác lập khái niệm "chứng khoán". Theo đó, chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; hợp đồng góp vốn đầu tư; các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định. Từ khái niệm này cho thấy, Luật Chứng khoán chỉ làm rõ chứng khoán là gì, gồm những loại nào, còn việc nó có phải là một loại GTCG hay không thì pháp luật về chứng khoán còn bỏ ngỏ. Mặc dù, trong phần liệt kê các loại chứng khoán thì một số loại chứng khoán cũng thuộc diện được liệt kê là GTCG tại BLDS năm 2005, ví dụ như cổ phiếu, trái phiếu. 16
  14. Trong lĩnh vực tố dụng dân sự, Tòa án nhân dân Tối cao cũng có hướng dẫn về cách nhận diện, xác định các loại GTCG. Theo hướng dẫn của Tòa án Nhân dân Tối cao thì GTCG bao gồm: Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác được quy định tại Điều 1 của Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005; trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 4 của Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005; tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và công cụ khác làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ được quy định tại điểm 16 Điều 3 của Luật Quản lý nợ công năm 2009; các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; hợp đồng góp vốn đầu tư; các loại chứng khoán khác do Bộ Tài chính quy định) được quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật Chứng khoán năm 2006 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2010); trái phiếu doanh nghiệp được quy định tại Điều 2 của Nghị định số 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ về phát hành trái phiếu doanh nghiệp [30]. Từ những liệt kê và phân tích nêu trên cho thấy, hiện chưa có một khái niệm "chuẩn", thống nhất về GTCG. Khái niệm về GTCG đang được quy định tại nhiều văn bản pháp luật, được xác lập theo nhiều cách khác nhau, theo nhiều cách tiếp cận khác nhau tùy thuộc vào mục đích, phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của văn bản pháp luật đó đang hướng tới. Nói chung, cho dù dưới góc độ nào, việc nhận thức chính xác khái niệm về GTCG đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thiết lập và thực hiện các giao dịch liên quan đến GTCG, cũng như trong việc xây dựng quy định pháp luật liên quan đến GTCG. Khái niệm về giấy tờ có giá phải thể hiện 17
  15. được những đặc điểm cơ bản của nó. Theo tác giả, giấy tờ có giá là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định xét trong mối quan hệ pháp lý với chủ thể khác, trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự. 1.1.2. Đặc điểm của giấy tờ có giá Như đã phân tích ở trên, GTCG nhìn dưới các góc độ, phương diện khác nhau sẽ có các định nghĩa khác nhau. Nhưng, cho dù được định nghĩa như thế nào, GTCG vẫn phải mang những đặc điểm đặc trưng, những thuộc tính cơ bản để nhận biết đó là GTCG và để phân biệt GTCG với các loại tài sản khác. Mặc dù, BLDS năm 2005 không hề có điều khoản nào quy định rõ GTCG có những đặc điểm nào đó để phân biệt với các loại tài sản khác cũng như đối với các loại giấy tờ khác. Tuy nhiên, từ việc kết nối các định nghĩa về GTCG tại các văn bản pháp luật thực định, cũng như từ việc phân tích ở phương diện ngôn ngữ của thuật ngữ GTCG có thể thấy rằng GTCG có ba đặc điểm, thuộc tính cơ bản là: (1) Xác nhận quyền tài sản của một chủ thể xác định; (2) Trị giá được bằng tiền; và (3) Có thể chuyển giao quyền sở hữu cho chủ thể khác trong giao dịch dân sự. Thứ nhất, giấy tờ có giá xác nhận quyền tài sản của một chủ thể xác định. Xét về mặt ngôn ngữ, bản thân thuật ngữ GTCG ngay khi được "xướng tên" đã tự nó "toát lên" những đặc điểm riêng biệt để nhận biết, trước tiên nó là một loại giấy tờ có giá trị và thứ đến giá trị của nó có thể trị giá được bằng tiền. Giấy tờ có giá là tài sản và bản thân nó là bằng chứng xác nhận quyền tài sản của một chủ thể xác định. Theo Điều 181 BLDS năm 2005 thì quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự. Đặc điểm này của GTCG được thể hiện rất rõ trong quy định tại các 18
  16. văn bản pháp luật thực định như Luật NHNN, Quy chế phát hành GTCG, Luật CCCCN, Luật Chứng khoán. Tuy nhiên, việc xác nhận quyền tài sản của người sở hữu các loại GTCG khác nhau sẽ có những nét đặc trưng riêng. Trong phạm vi hoạt động của NHNN và các TCTD, GTCG được quy định dựa trên góc độ đây là loại giấy tờ mà các tổ chức phát hành để huy động vốn. Cụ thể, theo Luật NHNN thì: "Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác" [30, khoản 8 Điều 6]. Tương tự như Luật NHNN, Khoản 1 Điều 4 Quy chế phát hành GTCG quy định giấy tờ có giá là chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa tổ chức tín dụng và người mua. Theo các quy định trên đây, thì GTCG là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác của tổ chức phát hành GTCG (trong đó có TCTD) đối với người sở hữu, người mua GTCG. Điều này cũng đồng nghĩa với việc GTCG xác nhận quyền chủ nợ của người sở hữu, người mua GTCG. Với tư cách là chủ nợ, người sở hữu GTCG có quyền yêu cầu tổ chức phát hành trả nợ một khoản tiền bằng mệnh giá ghi trên GTCG kèm theo trả các khoản lãi vào ngày đáo hạn GTCG. Luật Các công cụ chuyển nhượng ghi nhận đặc điểm của GTCG về việc xác nhận quyền tài sản của một chủ thể xác định dưới góc độ khác với Luật NHNN và Luật Các TCTD. Theo Luật CCCCN thì "công cụ chuyển nhượng là giấy tờ có giá ghi nhận lệnh thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định vào một thời điểm nhất định" [21, khoản 1 Điều 4]. 19
  17. Như vậy, quyền tài sản của chủ thể sở hữu GTCG theo quy định của Luật CCCCN chính là quyền của người thụ hưởng trong việc yêu cầu người phát hành, người bị ký phát thanh toán một số tiền xác định vào một thời điểm xác định cho người thụ hưởng. Quyền yêu cầu của người thụ hưởng xuất phát từ việc người ký phát, người phát hành thực hiện phát hành CCCN trên cơ sở giao dịch mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, cho vay, giao dịch thanh toán và giao dịch tặng cho theo quy định của pháp luật. Cũng xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định, nhưng quyền tài sản của chủ sở hữu chứng khoán lại là quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn góp của tổ chức phát hành. Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Chứng khoán thì chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Tùy thuộc vào loại chứng khoán khác nhau (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán hay hợp đồng góp vốn đầu tư) mà quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu chứng khoán loại đó sẽ có nội dung và phạm vi khác nhau. Ví dụ, loại chứng khoán là "Quyền mua cổ phần" sẽ "mang lại cho cổ đông hiện hữu quyền mua cổ phần mới theo điều kiện đã được xác định" [22, khoản 6 Điều 6] còn loại chứng khoán là "Hợp đồng góp vốn đầu tư" sẽ "mang lại cho người góp vốn lợi nhuận và được phép chuyển đổi thành chứng khoán khác" [26, khoản 8a Điều 6]. Như vậy, giấy tờ có giá dù là loại nào đi nữa thì cũng luôn mang đặc điểm là bằng chứng xác nhận quyền tài sản của một chủ thể xác định, tuy rằng nội dung và phạm vi của quyền tài sản mà loại GTCG đó ghi nhận là không giống nhau. Thứ hai, giấy tờ có giá trị giá được bằng tiền. Một trong những đặc điểm nổi bật khác của GTCG đó là GTCG có thể trị giá được bằng tiền, nghĩa là có thể hoán đổi GTCG thành tiền. 20
  18. Thật vậy, qua khái niệm về GTCG như đã phân tích ở trên có thể thấy rằng vì bản thân GTCG xác nhận quyền yêu cầu trả nợ, quyền yêu cầu thanh toán một khoản tiền trong một thời hạn nhất định và khoản tiền đó luôn được xác định rõ trên GTCG nên GTCG có thể trị giá bằng tiền. Đặc điểm trị giá được bằng tiền của GTCG thể hiện rất rõ trong các mối quan hệ pháp lý liên quan đến GTCG như quan hệ giữa người sở hữu GTCG với tổ chức phát hành GTCG để huy động vốn, quan hệ chiết khấu, tái chiết khấu GTCG hay bảo đảm tiền vay bằng GTCG. Trong mối quan hệ giữa người sở hữu GTCG với tổ chức phát hành GTCG, khi đến hạn thanh toán của GTCG, người sở hữu GTCG có quyền yêu cầu tổ chức phát hành trả nợ một khoản tiền bằng mệnh giá của GTCG cộng với số tiền lãi tính trên mệnh giá GTCG. Như vậy, đến ngày đáo hạn, GTCG đã được quy ra một khoản tiền và tổ chức phát hành có nghĩa vụ trả cho người sở hữu số tiền đó. Xét trong mối quan hệ chiết khấu GTCG, khi bên nhận chiết khấu đồng ý chiết khấu GTCG của khách hàng thì bên nhận chiết khấu phải trả cho khách hàng số tiền chiết khấu (gọi là giá chiết khấu) dựa trên giá trị GTCG khi đến hạn thanh toán, lãi suất chiết khấu và thời hạn còn lại của GTCG. Trong giao dịch bảo đảm tiền vay bằng GTCG, mức cho vay được xác định dựa trên giá trị của GTCG. Mức cho vay thường không vượt quá giá trị của GTCG. Ngoài ra, đặc điểm trị giá được bằng tiền của GTCG còn thể hiện ở chỗ, có nhiều loại GTCG còn được coi như tiền, làm phương tiện thanh toán trong thị trường. Khoản 1 điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật NHNN (số 10/2003/QH11 ngày 17/6/2003) trước đây đã từng quy định GTCG là một loại tiền tệ theo đó tiền tệ là phương tiện thanh toán, bao gồm tiền giấy, kim loại và các giấy tờ có giá như tiền. Mặc dù vậy, trên thực tế, các loại GTCG tuy có giá trị như tiền nhưng được sử dụng trong các giao dịch 21
  19. dân sự thông thường hạn chế hơn so với tiền hoặc chỉ được dùng làm phương tiện lưu thông giữa một số chủ thể nhất định theo quy định của pháp luật (ví dụ, séc). Thứ ba, người sở hữu giấy tờ có giá có thể chuyển giao quyền sở hữu giấy tờ có giá cho chủ thể khác trong giao dịch dân sự. Đặc điểm đặc trưng khác của GTCG đó là GTCG được chuyển nhượng, tức là người sở hữu GTCG có thể chuyển giao quyền sở hữu GTCG cho chủ thể khác trong giao dịch dân sự. Pháp luật hiện hành xem GTCG là một loại tài sản, vì vậy, người sở hữu GTCG được quyền chuyển nhượng GTCG cho chủ thể khác theo cách thức và thông qua các hình thức giao dịch phù với quy định của pháp luật như mua, bán, cho, tặng, trao đổi, thừa kế, Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp người sở hữu GTCG đều có thể tự do chuyển nhượng quyền sở hữu GTCG đó cho người khác. Thực tế, việc chuyển nhượng quyền sở hữu GTCG trong nhiều trường hợp là không được thực hiện hoặc thực hiện trong những điều kiện, giới hạn nhất định. Việc một GTCG không được hoặc bị hạn chế chuyển nhượng thường do loại GTCG đó thuộc trường hợp pháp luật quy định không được chuyển nhượng. Các văn bản pháp luật hiện hành như Luật CCCCN, Luật Doanh nghiệp, Quy chế phát hành GTCG, Luật Các TCTD quy định rất cụ thể các trường hợp cấm hoặc hạn chế chuyển nhượng GTCG, đặc biệt GTCG là cổ phiếu hoặc CCCN. Ngoài ra, giấy tờ có giá không được hoặc bị hạn chế chuyển nhượng do tình trạng pháp lý của GTCG đó tại thời điểm xác lập giao dịch chuyển nhượng chưa thỏa mãn hết các điều kiện để được tham gia giao dịch (ví dụ, cổ phiếu mà cổ đông chưa thanh toán hết tiền mua cổ phiếu hoặc cổ phiếu mà các bên thỏa thuận không được dùng làm tài sản bảo đảm). 22