Luận văn Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo luật doanh nghiệp năm 2014
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo luật doanh nghiệp năm 2014", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_bao_dam_quyen_tu_do_kinh_doanh_theo_luat_doanh_nghi.pdf
Nội dung text: Luận văn Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo luật doanh nghiệp năm 2014
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THỊ HẢI NINH BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO KINH DOANH THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014 Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Dương Đăng Huệ Hà Nội - 2016
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi và không trùng lặp với bất cứ công trình nào của các tác giả khác. Các kết quả nghiên cứu trong Luận văn đảm bảo chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính đối với Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Luận văn này được thực hiện một cách độc lập dưới sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS. Dương Đăng Huệ TÁC GIẢ LUẬN VĂN PHẠM THỊ HẢI NINH
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CP : Cổ phần DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước LDN : Luật Doanh nghiệp LĐT : Luật Đầu tư TNHH : Trách nhiệm hữu hạn QTCT : Quản trị công ty XHCN : Xã hội chủ nghĩa
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH 6 1.1 Khái niệm, nội dung quyền tự do kinh doanh 6 1.2 Những yếu tố chi phối quyền tự do kinh doanh 13 1.3 Ý nghĩa của quyền tự do kinh doanh 18 1.4 Pháp luật về bảo đảm quyền tự do kinh doanh 21 Chương 2: LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014- BẢO ĐẢM PHÁP LÝ MỚI CHO VIỆC THỰC THI QUYỀN TỰ DO KINH DOANH Ở VIỆT NAM 31 2.1 Luật Doanh nghiệp ghi nhận các mô hình tổ chức sản xuất- kinh doanh để cá nhân, doanh nghiệp lựa chọn 32 2.2 Luật Doanh nghiệp hoàn thiện các mô hình quản trị doanh nghiệp 33 2.3 Luật Doanh nghiệp cải cách thủ tục gia nhập thị trường theo hướng có lợi cho doanh nghiệp 44 2.4 Luật Doanh nghiệp mở rộng quyền tự quyết của doanh nghiệp 52 2.5 Luật Doanh nghiệp giới hạn sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh 60 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP GÓP PHẦN ĐƯA LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014 VÀO CUỘC SỐNG 63 3.1 Dự báo tác động tích cực của Luật Doanh nghiệp 2014 đối với quyền tự do kinh doanh 63 3.2 Những bài học kinh nghiệm rút ra sau một năm thực thi Luật Doanh nghiệp 2014 65 3.3 Các giải pháp góp phần đưa Luật Doanh nghiệp năm 2014 đi vào cuộc sống và bảo đảm cho quyền tự do kinh doanh 67 KẾT LUẬN 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhằm thể chế hóa đường lối này của Đảng, Hiến pháp 1992 đã ghi nhận quyền tự do kinh doanh của cá nhân, pháp nhân ở nước ta. Từ đó, bảo đảm quyền tự do kinh doanh trở thành một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cả hệ thống pháp luật Việt Nam, trong đó có luật kinh tế. Qua hơn 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã có nhiều thay đổi to lớn, sâu sắc và toàn diện. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện khác của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền vững đất nước, nhằm xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Do đó, Hiến pháp 2013 đã ra đời với nhiều điểm mới phù hợp với định hướng nêu trên của Đảng. Một trong số những điểm mới đó của Hiến pháp 2013 là: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”, quyền tự do kinh doanh đã được ghi nhận một cách đầy đủ hơn, toàn diện hơn so với quy định trong Hiến pháp 1992. Hiến pháp 2013 thừa nhận tự do kinh doanh là quyền cơ bản của công dân. Đất nước ta đang trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới, việc tham gia vào Hiệp định TPP- một cấu trúc quan trọng của khu vực Châu Á- Thái Bình Dương, đồng thời khi khối Cộng đồng Asean vừa được tuyên bố thành lập (ngày 22/11/2015) chính là những cơ hội tốt để giúp Việt Nam nắm bắt và có thêm điều kiện, tranh thủ hợp tác quốc tế để phục vụ chiến lược hội nhập quốc tế nói chung và chiến lược đối ngoại ở khu vực Châu Á- Thái Bình Dương và nhóm các quốc gia Asean nói riêng; từ đó nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. 1
- Điều kiện xã hội thay đổi, môi trường kinh doanh ngày càng mở rộng dẫn tới việc phải thay đổi tương ứng các quy định của pháp luật về hoạt động doanh nghiệp. Trong xu thế đó, Luật doanh nghiệp (LDN) 2014 đã ra đời hướng tới phương thức quản lý nhà nước mới, hiện đại phù hợp với sự phát triển ngày càng mở rộng của nền kinh tế và tháo gỡ nhiều khó khăn, hạn chế góp phần tạo điều kiện mở ra một môi trường kinh doanh thuận lợi phù hợp với xu thế chung của thế giới LDN 2014 đã góp một phần quan trọng vào việc hiện thực hóa một cách đầy đủ quyền tự do kinh doanh theo nguyên tắc đã được Hiến định: người dân được tự do kinh doanh trong ngành nghề mà pháp luật không cấm. Vì vậy, việc nghiên cứu để nắm rõ vai trò to lớn của Luật này trong việc ghi nhận và tạo cơ sở pháp lý để bảo đảm quyền tự do kinh doanh là việc làm hết sức cần thiết. Bởi LDN 2014 mới ra đời và đi vào thực tiễn hoạt động không lâu nên không phải người nào, kể cả các doanh nghiệp đều có thể nắm vững được những điểm mới của luật này để vận dụng trong thực tiễn các hoạt động của mình. Vì vậy, việc nghiên cứu để làm rõ những điểm mới trong LDN 2014, chứng minh rằng luật này đã có vai trò quan trọng như thế nào trong việc tạo lập một môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng và các chủ thể khác trong quan hệ thị trường nói chung là việc làm rất cần thiết hiện nay. Với mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc sự nghiệp chung này, tác giả lựa chọn đề tài: “Bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo Luật doanh nghiệp năm 2014” làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề tự do kinh doanh từ lâu đã được nhiều công trình nghiên cứu khoa học đề cập tới. Trong số các công trình đó có thể kể đến như: 1. Tự do ý chí trong pháp luật Việt Nam, tác giả: PGS. TS Ngô Huy Cương (Chủ nhiệm) (2007), Đề tài nghiên cứu đặc biệt cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, Mã số: QG 0738; 2. Chuyên khảo về Luật kinh tế, Phạm Duy Nghĩa (2003), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; 2
- 3. Pháp luật về các hình thức tổ chức kinh doanh của tác giả Nguyễn Thị Khế, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2007 4. Quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Liên minh Châu âu và Việt Nam; sách chuyên khảo của tác giả Phan Huy Hồng và Nguyễn Thanh Tú, Hà Nội, NXB Chính trị quốc gia- Sự thật, 2012. 5. Tác giả TS. Bùi Ngọc Cường (2004), Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội; 6. PGS.TS Ngô Huy Cương (2006), Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam, NXB Tư Pháp; Và nhiều tác phẩm, công trình khác nữa Riêng các công trình nghiên cứu trực tiếp, chuyên sâu liên quan đến đề tài mà tác giả lựa chọn cần phải kể đến một số tác phẩm chuyên sâu sau đây: (1)“Xây dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh ở nước ta”, Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Bùi Ngọc Cường, Đại học Luật Hà Nội, 2001; (2) “Tự do kinh doanh và vấn đề bảo đảm quyền con người tại Việt Nam”, Sách chuyên khảo của Mai Hồng Quỳ, NXB Lao động, TP Hồ Chí Minh, 2012; (3)“Tự do kinh doanh: Một số vấn đề lý lận và thực tiễn”, bài viết của Bùi Xuân Hải, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 06/2011. Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh và các mức độ khác nhau về quyền tự do kinh doanh, bảo đảm quyền tự do kinh doanh ở nước ta trong các giai đoạn lịch sử nhưng đều xảy ra khi LDN được ban hành. Nói cách khác, các công trình nêu trên đều ít nhiều liên quan đến quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam nhưng đều có đối tượng nghiên cứu là các đạo luật đã được ban hành trước khi Nhà nước ta thông qua LDN. Vì vậy, có thể nói rằng hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu về về đề vai trò của LDN trong việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh ở nước ta. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu 3
- Mục đích nghiên cứu của luận văn là thông qua việc phân tích, đánh giá những điểm mới của LDN 2014, tác giả chứng minh rằng với việc ra đời của LDN thì quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam đã được ghi nhận và bảo đảm ở một mức độ cao hơn rất nhiều so với trước đây. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Trong luận văn chỉ nghiên tập trung nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận cơ bản nhất liên quan đến tự do kinh doanh và quyền tự do kinh doanh và đặc biệt là phát hiện và phân tích các quy định cụ thể trong LDN 2014 có liên quan đến quyền tự do kinh doanh. Cụ thể như sau: - Các khái niệm cơ bản về tự do kinh doanh, quyền tự do kinh doanh trong pháp luật Việt Nam; - Các công cụ pháp lý để bảo đảm quyền tự do kinh doanh; - Thực trạng quy định của LDN 2014 về bảo đảm quyền tự do kinh doanh; - Giải pháp để đưa các quy định của LDN 2014 về bảo đảm quyền tự do kinh doanh vào cuộc sống. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Quyền tự do kinh doanh được bảo đảm thực hiện bởi nhiều biện pháp, không chỉ có biện pháp pháp luật mà còn cần có các biện pháp chính trị, kinh tế, xã hội. Trong số các biện pháp như đã trình bày, cả hệ thống pháp luật Việt Nam từ Hiến pháp đến các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị thấp nhất đều phải có nhiệm vụ tạo cơ sở pháp lý để các tổ chức, cá nhân thực hiện được quyền tự do kinh doanh. Tuy nhiên, do hạn chế của thời gian và đặc biệt là sự hạn chế về mục đích của đề tài nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu vai trò của LDN 2014 trong việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh mà thôi. Các đạo luật khác, ví dụ: Luật đầu tư, Bộ luật dân sự, Luật kinh doanh bất động sản nếu có được nhắc tới thì cũng chỉ có vai trò so sánh, minh họa để làm sâu sắc thêm vai trò quan trọng của LDN mà thôi. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, của lý luận nhà nước và pháp luật để làm cơ sở nghiên cứu các vấn đề 4
- liên quan đến việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh. Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực chất của việc vận dụng đó là bám sát vào sự thay đổi trong đời sống kinh tế - xã hội để phát huy mọi tiềm năng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngoài ra, đề tài này có sử dụng một hệ thống các phương pháp nghiên cứu cụ thể tiêu biểu như: phương pháp so sánh, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp xã hội học,phương pháp lịch sử- cụ thể 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn đã nghiên cứu một cách khái quát về quyền tự do kinh doanh, có cách nhìn tổng quan, phân tích một cách hệ thống về bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong LDN 2014; Từ thực tiễn thực thi LDN 2014, tác giả đánh giá những tác động của Luật này trong đời sống cũng như đề xuất giải pháp hoàn thiện LDN 2014, để việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong Luật này được thực hiện đầy đủ, tích cực. Những giải pháp trong luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho các cơ quan thực thi pháp luật, tổ chức và cá nhân cũng như phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền tự do kinh doanh và pháp luật về quyền tự do kinh doanh Chương 2: Luật doanh nghiệp 2014- Bảo đảm pháp lý mới trong việc thực thi quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam Chương 3: Các giải pháp góp phần đưa Luật doanh nghiệp năm 2014 vào cuộc sống. 5
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TỰ DO KINH DOANH 1.1 Khái niệm, nội dung quyền tự do kinh doanh 1.1.1 Khái niệm quyền tự do kinh doanh Bản chất thật sự của tự do là sự lựa chọn. Đối với thế giới tự nhiên, con người có quyền lựa chọn những đối tượng mà mình thủ đắc bởi họ là chủ thể của thế giới. Tuy nhiên, ngày nay, vấn đề này có nhiều khác biệt bởi sự hạn chế của các phương tiện cho sự tồn tại chung của cộng đồng. Đối với xã hội, con người có quyền lựa chọn cách thức ứng xử và trao đổi các đối tượng phục vụ cho nhu cầu vật chất và tinh thần của mình, đồng thời cũng nhằm bảo đảm cho sự tồn tại chung của cộng đồng, sự lựa chọn này cũng bị những hạn chế nhất định [12, tr. 13]. Quyền tự do kinh doanh là một bộ phận hợp thành trong hệ thống các quyền cơ bản của công dân. Để có quan niệm đúng đắn về nó, trước hết cần tìm hiểu để nhận thức đầy đủ nội hàm các khái niệm quyền con người, quyền công dân nói chung dưới góc độ lịch sử. Mỗi bước phát triển của lịch sử xã hội loài người đều gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội nhằm giải phóng con người, làm cho con người ngày càng được tự do hơn trong mọi lĩnh vực của đời sống, xã hội, trong đó có lĩnh vực kinh doanh Trong lịch sử tư tưởng nhân loại có các quan niệm khác nhau về sự ra đời, bản chất của quyền con người. Trước khi học thuyết "pháp luật tự nhiên" ra đời, lịch sử nhân loại đã từng có quan niệm cho rằng, con người mang thuộc tính tự nhiên, con người ra đời đương nhiên có quyền tự do. Quyền tự do của con người không do ai ban phát. Quyền con người ra đời trước pháp luật và nhà nước. Trong điều kiện lịch sử cụ thể đó, quan niệm này thể hiện khát vọng tự do của con người. Đến thế kỷ XVII, XVIII các nhà tư tưởng, nhà cải cách lỗi lạc như Locke, Rousseau đã đưa ra học thuyết "pháp luật tự nhiên". Theo quan niệm của thuyết này thì quyền con người là đặc quyền tự nhiên, đứng trên, cao hơn pháp luật nhà nước. Thuyết pháp luật tự nhiên ra đời để phủ nhận quyền lực, pháp luật 6
- của nhà nước quân chủ phong kiến, luật lệ của nhà thờ thiên chúa giáo. Thuyết pháp luật tự nhiên mang giá trị nhân bản, nhân đạo sâu sắc. Nó đưa ra những tư tưởng, nguyên tắc để bảo vệ quyền cá nhân của con người trước quyền lực của nhà nước. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng luôn đặt con người cũng như quyền con người trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Quyền tự do của con người là khái niệm mang tính lịch sử, hình thành và phát triển trong cuộc đấu tranh giai cấp vì sự tiến bộ xã hội, chịu sự chi phối của chế độ kinh tế, chế độ chính trị. Quyền tự do của con người phản ánh mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân. Với quan niệm đó, quyền con người được xem là giá trị được nhà nước ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật thì mới trở thành hiện thực. Một mặt, quyền con người mang thuộc tính tự nhiên; do đó, không cần ai ban tặng. Mặt khác, khi chưa được Nhà nước quy phạm hóa bằng pháp luật thì các quyền con người chưa được xã hội thừa nhận. Vai trò của Nhà nước chính là chỗ đáp ứng được nhu cầu về quyền cá nhân con người trong xã hội, biết phát hiện nhu cầu hiện thực của việc xuất hiện quyền con người để sớm thể chế hóa và bảo vệ bằng pháp luật. Ở các nước XHCN trước đây, quyền con người ít được nói đến, được mặc nhiên đồng nhất với quyền công dân. Việc đồng nhất như vậy là chưa chính xác bởi vì quyền con người có nội hàm rộng hơn quyền công dân, ví dụ như con người có thể bị hạn chế quyền công dân nhưng quyền con người với tư cách là một thực thể tự nhiên thì họ không thể bị hạn chế. Bởi vậy, không thể đồng nhất quyền con người với quyền công dân. Nhận thức được rõ quy luật vận động của xã hội loài người, trong Hiến pháp năm 1992 của nước ta (được sửa đổi bổ sung năm 2001) đã ghi nhận quyền con người là một quyền Hiến định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật" [39]. Như vậy, có thể khẳng định rằng, việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện tốt các quyền công dân cũng chính là đã thực hiện nội dung cơ bản của quyền 7
- con người. Các quyền của công dân rất đa dạng, liên quan đến mọi mặt của đời sống xã hội. Trong hệ thống các quyền đó thì quyền tự do kinh doanh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Giá trị to lớn của quyền tự do kinh doanh thể hiện ở chỗ nó bảo đảm sự tự do trong hoạt động kinh tế. Hoạt động kinh tế luôn giữ vị trí trung tâm trong đời sống xã hội, quyết định các hoạt động khác của con người và xã hội. Khi tự do kinh doanh được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện thì quyền tự do kinh doanh trở thành một phạm trù pháp lý. Dưới góc độ này, quyền tự do kinh doanh được hiểu theo hai nghĩa là chủ quan và khách quan: Trước hết, dưới góc độ chủ quan hay là nhìn dưới góc độ quyền chủ thể thì quyền tự do kinh doanh được hiểu là khả năng hành động một cách có ý thức của cá nhân, tổ chức trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Ở khía cạnh này, quyền tự do kinh doanh bao gồm một loạt các hành vi mà các chủ thể có thể xử sự như: tự do đầu tư tiền vốn để thành lập doanh nghiệp, tự do lựa chọn mô hình tổ chức kinh doanh, tự do lựa chọn đối tác để thiết lập quan hệ kinh doanh, tự do lựa chọn khách hàng, tự do lựa chọn cách thức giải quyết tranh chấp, tự do cạnh tranh Những khả năng xử sự này là thuộc tính tự nhiên của chủ thể chứ không phải do Nhà nước ban tặng. Song, những khả năng xử sự đó muốn trở thành hiện thực thì phải được Nhà nước thể chế hóa bằng pháp luật và khi đó mới trở thành “thực quyền” [13, tr.19]. Chính vì vậy, quyền tự do kinh doanh với tư cách là quyền năng chủ thể cũng có giới hạn nhất định, các giới hạn này xuất hiện bới những yếu tố chủ quan (mức độ ghi nhận của pháp luật, khả năng nắm bắt và thực hiện của con người) và cả những yếu tố khách quan (trình độ phát triển kinh tế, xã hội). Do đó, V.I.Lênin đã từng viết: “Sống trong một xã hội mà lại thoát khỏi xã hội ấy để được tự do, đó là điều không thể được” [59, tr.127]. Mặt khác, dưới góc độ khách quan thì quyền tự do kinh doanh là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức thực hiện được trên thực tế quyền được tự do kinh doanh của mình [13, tr. 19-20]. Theo nghĩa này, quyền tự do kinh doanh chính là một chế định pháp luật. Như vậy, theo quan niệm này, quyền tự do kinh doanh không chỉ 8
- bao gồm những quyền của cá nhân hoặc pháp nhân được hưởng mà bao hàm cả trách nhiệm pháp lý của cơ quan nhà nước, cá nhân hoặc pháp nhân thực hiện các quyền đó. Như vậy, từ quan niệm trên về quyền tự do kinh doanh thì quyền tự do kinh doanh có những thuộc tính cơ bản như sau: Một là, quyền tự do kinh doanh là một bộ phận cấu thành và đóng vai trò quan trọng trong hệ thống các quyền tự do của con người và vì vậy, quyền tự do kinh doanh phải được xem xét như là giá trị tự thân của con người (nhân quyền) mà Nhà nước phải tôn trọng, thừa nhận và bảo vệ [13, tr. 12]. Hai là, quyền tự do kinh doanh hình thành, phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chế độ chính trị- pháp lý, trình độ phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia khác nhau thì mức độ ghi nhận và bảo vệ của pháp luật cũng không giống nhau. Ba là, quyền tự do kinh doanh là quyền luôn được đặt trong khuôn khổ pháp luật và bị rằng buộc bởi những giới hạn nhất định. Giới hạn này được thể hiện trên hai phương diện, bao gồm: (i) mức độ nghi nhận của pháp luật về quyền tự do của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động kinh tế và (ii) những bảo đảm pháp lý (khả năng bảo vệ của pháp luật) cho việc thực thi những quyền đó. Tóm lại, khi xem xét khái niệm quyền tự do kinh doanh thì cần nhìn nhận nó từ nhiều góc độ (mặt chủ quan và mặt khách quan) và phải đứng trên quan niệm về quyền con người cũng như quyền công dân để thấy hết được các nội hàm cần thiết của nó. Theo đó, quyền tự do kinh doanh là quyền công dân trong hoạt động kinh tế, nó mang tính chất tự nhiên của quyền con người (tức là không do Nhà nước ban phát) nhưng để trở thành “thực quyền” thì quyền tự do kinh doanh phải được pháp luật Nhà nước ghi nhận và bảo đảm thực hiện trên thực tế. Chính vì vậy, quyền tự do kinh doanh dù ở bất cứ nơi đâu cũng phải nằm trong những khuôn khổ và trong những giới hạn nhất định của pháp luật. Các khuôn khổ, giới hạn này sẽ được “nới” dần khi nền kinh tế- xã hội phát triển lên cao hơn. 1.1.2 Nội dung của quyền tự do kinh doanh và bảo đảm quyền tự do kinh doanh 9
- Cũng như các quyền khác, quyền tự do kinh doanh có nội dung rất cụ thể. Nội dung của quyền này cũng không bất biến mà luôn có sự bổ sung, theo hướng ngày càng đầy đủ, toàn diện hơn do sự hoàn thiện không ngừng của các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ta. Tuy nhiên, xét về cơ bản thì nội dung của quyền tự do kinh doanh thường bao gồm một số yếu tố có tính bền vững như quan điểm của đa số các nhà nghiên cứu pháp lý thì quyền tự do kinh doanh là một hệ thống quyền của chủ thể kinh doanh được pháp luật bảo hộ, bao gồm 5 nội dung cơ bản: (1) quyền tự do thành lập doanh nghiệp; (2) quyền lựa chọn ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh (đối tượng kinh doanh); (3) quyền tự do hợp đồng; (4) quyền tự quyết định các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh; (5) quyền rút lui khỏi thị trường Quyền tự do kinh doanh suy đến cùng là quyền của con người, được nhà nước ghi nhận trong pháp luật;Tuy nhiên, quyền này sẽ chỉ tồn tại trên lý thuyết nếu không được các cơ quan nhà nước và các chủ thể khác tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Vì vậy, ghi nhận quyền tự do kinh doanh là việc làm rất cần thiết và quan trọng nhưng việc bảo đảm cho quyền này được thực thi trên thực tế lại còn quan trọng hơn. Nói tóm lại, nếu chỉ thừa nhận những quyền của chủ thể mà không bảo đảm cho nó những điều kiện để thực hiện thì quyền đó cũng chỉ mang tính hình thức. Sẽ không có tự do kinh doanh trên thực tế nếu nó không được pháp luật thừa nhận và bảo đảm thực thi. Mặt khác, cũng cần lưu ý rằng việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh không phải bao giờ cũng có mức độ, hình thức và nội dung giống nhau. Điều này tùy thuộc vào từng điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội cụ thể của đất nước trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử. Như trên đã trình bày, quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam đã được ghi nhận trong Hiến pháp; đấy là quyền hiến định. Tuy nhiên, quyền này chỉ tồn tại trên giấy (trong Hiến pháp) nếu không được nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp để tạo điều kiện (cơ sở pháp lý) để các cá nhân, pháp nhân thực hiện được trên thực tế quyền hiến định của mình. Đó là lý do tại sao sau khi Hiến pháp 1992 và đặt biệt là Hiến pháp 2013 ra đời thì Quốc hội, Chính phủ đã ban hành hàng loạt các đạo luật, Nghị định để cụ thể hóa các điều kiện kinh tế, xã hội, pháp lý cho doanh nghiệp 10
- hoạt động. Ví dụ, sau khi Hiến pháp 2013 ra đời, Quốc hội đã ban hành LDN2014, Luật đầu tư 2014, Bộ luật dân sự 2015, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 Đó là những đạo luật có vai trò đặc biệt quan trọng để triển khai thi hành quyền tự do kinh doanh đã được Hiến pháp 2013 ghi nhận. Tóm lại, đảm bảo thực hiện quyền tự do kinh doanh không phải là nhiệm vụ của Hiến pháp, cũng không phải là nhiệm vụ của riêng một đạo luật nào mà là “trách nhiệm” của cả hệ thông pháp luật của nhà nước ta, bắt đầu từ Hiến pháp đến văn bản có giá trị pháp lý thấp nhất là Thông tư. Từ những đánh giá, phân tích nêu trên có thể định nghĩa về bảo đảm quyền tự do kinh doanh trong pháp luật Việt Nam như sau: Bảo đảm quyền tự do kinh doanh là hệ thống các quy phạm pháp luật và các thiết chế do Nhà nước xây dựng nhằm bảo đảm và tạo điều kiện cho các cá nhân, pháp nhân tiến hành hoạt động kinh doanh một cách thuận lợi nhất. Nội dung của việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh thực chất là việc Nhà nước ban hành chính sách, pháp luật để ghi nhận các biện pháp, cơ chế nhằm tạo điều kiện để cá nhân, pháp nhân thực hiện được trên thực tế quyền tự do kinh doanh của mình một cách hiệu quả nhất. Việc bảo đảm quyền tự do kinh doanh được thực hiện thông qua các quy định pháp lý sau đây: - Nhà nước ghi nhận và bảo hộ quyền tư hữu về tài sản Quyền tư hữu về tài sản là một trong những quyền cơ bản, quan trọng nhất của công dân nên pháp luật của bất kỳ quốc gia nào cũng có những quy định để bảo đảm quyền tư hữu. Theo quy định của pháp luật nước ta hiện nay thì việc bảo đảm quyền tư hữu được thực hiện ở hai mức độ. Một mặt, nhà nước quy định phạm vi những quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để chủ sở hữu tài sản thực hiện các quyền sở hữu của mình một cách an toàn, đầy đủ nhất. Mặt khác, nhà nước quy định những biện pháp pháp lý cụ thể để dựa vào đó, chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp bảo đảm quyền sở hữu của mình. Quyền tư hữu được nhà nước bảo đảm bằng việc ghi nhận trong Hiến pháp và trở thành quyền hiến định. Bên cạnh đó, quyền năng này còn được bảo đảm bằng các biện pháp dân sự, hình sự, hành chính. Như vậy, nội dung quan trọng nhất của việc 11
- bảo đảm quyền tư hữu về tài sản là pháp luật quy định những cơ sở pháp lý để chủ sở hữu thực hiện quyền sở hữu, đồng thời cũng ghi nhận những biện pháp để dựa vào đó chủ sở hữu có thể bảo đảm tài sản của mình. - Nhà nước ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền tự do thành lập doanh nghiệp Với nguyên tắc tự do kinh doanh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc thành lập doanh nghiệp được coi là quyền cơ bản của nhà đầu tư. Tuy nhiên, việc thành lập doanh nghiệp có tác động không nhỏ đến lợi ích của xã hội. Vì vậy, thành lập doanh nghiệp phải được thực hiện trong khuân khổ của pháp luật. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì quyền tự do thành lập doanh nghiệp ở nước ta hiện nay được bảo đảm bởi các cơ chế và các quy định pháp lý như: Một là, pháp luật đưa ra nhiều mô hình tổ chức sản xuất- kinh doanh (mô hình doanh nghiệp) để các nhà đầu tư lựa chọn. Ví dụ: LDN 2014 đưa ra 4 hình thức doanh nghiệp là: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh. Hai là, pháp luật khuyến khích mọi pháp nhân, cá nhân thành lập doanh nghiệp theo hướng mở rộng các đối tượng được thành lập doanh nghiệp. Trừ một số nghười không được phép do luật định. - Nhà nước ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền tự do giao kết hợp đồng Quyền tự do hợp đồng được coi là bộ phận cấu thành quan trọng là biểu hiện sinh động nhất của quyền tự do kinh doanh. Việc ghi nhận và bảo vệ quyền tự do hợp đồng có tác động to lớn đến quyền tự do kinh doanh. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì các bảo đảm đối với quyền tự do giao kết hợp đồng bao gồm: Một là, pháp luật quy định mọi tổ chức, cá nhân đều có quyền ký kết các giao dịch để thỏa mãn các nhu cầu vật chất, tinh thân của mình. Hai là, pháp luật quy định quyền tự do lựa chọn nội dung, hình thức của hợp đồng, tự do lựa chọn các đối tác, lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng 12
- Ba là, pháp luật quy định những trường hợp cụ thể khi nào thì nhà nước được can thiệp vào việc ký kết, thực hiện hợp đồng để tránh sự can thiệp tràn lan, vô căn cứ của các cơ quan công quyền vào hoạt động sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp, bảo đảm quyền tự do hợp đồng của doanh nghiệp. - Nhà nước ghi nhận và bảo đảm quyền tự do cạnh tranh trong hoạt động kinh tế Nền kinh tế Việt Nam với mục tiêu phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, do đó chúng ta buộc phải tuân theo quy luật của nền kinh tế thị trường mà trong đó quy luật cạnh tranh là một thành tố cơ bản không thể tách rời. Pháp luật về bảo đảm quyền tự do cạnh tranh của nước ta hiện nay bao gồm một số nội dung sau: một là, những công cụ đảm bảo cho cạnh tranh diễn ra công bằng; hai là, những công cụ pháp luật được xây dựng để kiểm soát chống độc quyền. Bởi vậy, nội dung bảo đảm quyền tự do cạnh tranh chính là đảm bảo các điều kiện để cạnh tranh diễn ra lành mạnh và kiểm soát chống việc độc quyền trong kinh doanh. - Nhà nước ghi nhận và bảo đảm quyền tự do định đoạt trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các doanh nghiệp Dưới tác động của quy luật cạnh tranh và sự tự do hóa các hoạt động kinh tế, mâu thuẫn phát sinh trong hoạt động kinh tế nảy sinh ngày càng nhiều. Nội dung cơ bản của việc bảo đảm quyền tự do định đoạt trong giải quyết tranh chấp được quy định trong pháp luật nước ta gồm các vấn đề chủ yếu sau: pháp luật cho phép chủ thể tham gia quan hệ tranh chấp được tự do thỏa thuận phương pháp giải quyết tranh chấp có thể bằng thương lượng, hòa giải, thông qua trọng tài thương mại hoặc giải quyết tranh chấp bằng con đường Tòa án. 1.2 Những yếu tố chi phối quyền tự do kinh doanh Như khái niệm ở trên, quyền tự do kinh doanh là một quyền mang tính chất tự nhiên nhưng nó chỉ có giá trị thực tế khi được pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện bằng các quy định cụ thể. Mặt khác, quyền tự do kinh doanh là quyền của cá nhân hoặc pháp nhân thuộc về một quốc gia nhất định. Do đó, quyền tự do kinh doanh ở mỗi quốc gia là không giống nhau do điều kiện kinh 13
- tế, xã hội, văn hóa của các nước khác nhau là khác nhau. Nội dung của quyền tự do kinh doanh nhìn chung được chi phối bởi các yếu tố cơ bản sau đây: 1.2.1 Chế độ chính trị “Chế độ chính trị là tổng thể những phương pháp và thủ đoạn mà các cơ quan nhà nước sử dụng để thực hiện quyền lực nhà nước” [16, tr.51]. Trong khi đó, nhà nước là một tổ chức thực hiện quyền lực chính trị của giai cấp thống trị. Do đó, ở mỗi nhà nước khác nhau, mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì giai cấp thống trị sẽ sử dụng những phương pháp, thủ đoạn khác nhau để thực hiện quyền lực nhà nước. Các phương pháp, thủ đoạn thường được chia thành hai loại chính: phương pháp dân chủ và phương pháp phản dân chủ. Vì thế, trong lịch sử xã hội loài người đã từng tồn tại rất nhiều chế độ chính trị khác nhau, bao gồm: chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong đó, ở mỗi xã hội khác nhau thì việc thừa nhận và mức độ bảo vệ quyền con người nói chung và quyền tự do kinh doanh nói riêng là khác nhau. Tuy nhiên, nếu đi từ thấp đến cao của nấc thang lịch sử xã hội loài người thì càng ở những xã hội sau, quyền con người càng được mở rộng hơn. Chính vì vậy, trong các chế độ chính trị như chế đô chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến khi mà quyền con người chưa được thừa nhận như một giá trị “tự thân” của con người thì quyền tự do kinh doanh cũng không được thừa nhận hoặc nếu có cũng chỉ tồn tại một cách méo mó, không đúng nghĩa. Đến khi nhà nước tư sản với thể chế chính trị dân chủ thì các quyền tự do của con người đã được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật. Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 đã khẳng định: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Do đó, dưới chế độ chính trị tư bản chủ nghĩa thì quyền tự do kinh doanh mới tồn tại và tạo ra động lực to lớn giải phóng sức lao động và đem lại khả năng phát triển kinh tế chưa từng có trong lịch sử loài người. Ở Việt Nam, chúng ta đã lựa chọn theo thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa. Do vậy, để hoàn thành bước quá độ và tạo nền tảng vững chắc cho chủ nghĩa xã hội, 14