Luận văn Bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng

pdf 84 trang vuhoa 24/08/2022 7360
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_bao_dam_quyen_cua_pham_nhan_trong_hoat_dong_kiem_sa.pdf

Nội dung text: Luận văn Bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NÔNG THỊ MINH TRẦM BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA PHẠM NHÂN TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT GIAM GIỮ, CẢI TẠO TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Công Giao Hà Nội - 2020
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Các tài liệu và số liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn chính xác. Luận văn này được thực hiện một cách độc lập dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Vũ Công Giao. Tôi xin chân thành cảm ơn. Người cam đoan Nông Thị Minh Trầm
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA PHẠM NHÂN TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT GIAM GIỮ, CẢI TẠO 8 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc bảo đảm quyền của phạm nhân 8 1.2. Hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo và ý nghĩa của nó với việc bảo đảm quyền của phạm nhân 15 1.3. Bảo đảm quyền của phạm nhân trong pháp luật quốc tế 18 1.4. Bảo đảm quyền của phạm nhân qua hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo theo quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam 22 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA PHẠM NHÂN TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT GIAM GIỮ, CẢI TẠO Ở TỈNH CAO BẰNG 29 2.1. Khái quát về cơ sở giam giữ, cải tạo và tình hình phạm nhân chấp hành hình phạt tại tỉnh Cao Bằng 29 2.2. Kết quả và hạn chế trong việcbảo đảm quyền của phạm nhân qua hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo của Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh Cao Bằng 36 2.3. Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra 50 CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM,GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA PHẠM NHÂN TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT GIAM GIỮ, CẢI TẠO, TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG 58 3.1.Quan điểm về bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo, từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng 58 3.2. Giải pháp bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo, từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng 61 KẾT LUẬN 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
  4. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự THAHS Thi hành án hình sự KSV Kiểm sát viên VKSND Viện Kiểm sát Nhân dân
  5. DANH MỤC BẢNG BIỂU Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Bảng phân loại phạm nhân theo tội danh của Trại tạm 31 giam Công an tỉnh Cao Bằng, từ năm 2015 - 2019 2.2 Bảng phân loại phạm nhân theo giới tính của Trại tạm 33 giam Công an tỉnh Cao Bằng, từ năm 2015 - 2019 2.3 Bảng phân loại phạm nhân theo trình độ học vấn của Trại 35 tạm giam Công an tỉnh Cao Bằng, từ năm 2015 - 2019
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhân quyền (quyền con người) là vấn đề hiện thu hút sự quan tâm lớn của toàn nhân loại.Tất cả các quốc gia văn minh đều nỗ lực thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền. Là thành viên của hơn 10 điều ước quốc tế về quyền con người, Việt Nam luôn cố gắng thực hiện các cam kết của mình, chủ động hợp tác với các quốc gia và các tổ chức quốc tế trong nhiều hoạt động bảo đảm quyền con người. Thực tiễn bảo đảm quyền con người ở nước ta trong thời gian qua cho thấy, việc này cần phải thực hiện trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt trong những lĩnh vực nhạy cảm mà các quyền con người dễ bị vi phạm như hoạt động thi hành án phạt tù thì càng phải được chú trọng. Thực tế ở nước ta cũng cho thấy, cần phải tăng cường kiểm sát việc thi hành án phạt tù (kiểm sát giam giữ, cải tạo) để bảo đảm quyền con người của phạm nhân tại các cơ sở giam giữ luôn được tôn trọng và bảo vệ một cách hiệu quả. Ở Việt Nam, Viện Kiểm sát Nhân dân (VKSND) là cơ quan tư pháp độc lập có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Tại Điều 25 Luật tổ chức VKSND năm 2014 đã khẳng định: “Viện Kiểm sát Nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án, cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự, người có thẩm quyền, cơ quan, tổ chức, các nhân có liên quan trong việc thi hành án hình sự”.Trong các hoạt động kiểm sát tư pháp thì hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù tại các trại giam có ý nghĩa đặc biệt, vì kết quả của quá trình này có ảnh hưởng trực tiếp và to lớn đến việc bảo vệ quyền của một nhóm người rất dễ bị tổn thương, đó là những người bị tước tự do vì vi phạm pháp luật. 1
  7. Trong thời gian qua, công tác kiểm sát thi hành án phạt tù của ngành kiểm sát nói chung và của VKSND tỉnh Cao Bằng nói riêng đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp, góp phần bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phạm nhân. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động kiểm sát thi hành án phạt tù tại VKSND tỉnh Cao Bằng cũng đang bộc lộ nhiều hạn chế nhất định ảnh hưởng đến việc bảo đảm các quyền của phạm nhân. Mặc dù công tác kiểm sát được thực hiện thường xuyên nhưng vẫn còn thiếu chiều sâu. Kỹ năng của KSV trong việc phát hiện, xử lý vi phạm của cơ quan thi hành án cũng còn hạn chế bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Chính vì vậy, học viên quyết định lựa chọn đề tài: “Bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng” để thực hiện luận văn thạc sỹ của mình, với mong muốn góp phần hoàn thiện thêm cơ sở lý luận và thực tiễn về việc bảo đảm quyền của phạm nhân trên phạm vi cả nước nói chung và tại tỉnh Cao Bằng nói riêng. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Ở Việt Nam, quyền của phạm nhân là đề tài dành được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều cơ quan, tổ chức cá nhân. Chính vì vậy mà trong thời gian qua đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này đã được thực hiện và công bố, trong đó có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như: -“Pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của GS.TS. Võ Khánh Vinh và PGS.TS. Nguyễn Mạnh Kháng; -"Quyền con người trong thế giới hiện đại"- đề tài khoa học cấp nhà nướcĐề tài KX 07-16, năm 1995 do GS Hoàng Văn Hảo và GS Phạm Ích Khiêm đồng chủ nhiệm; -“Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người”, do Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, La Khánh Tùng (đồng chủ biên) NXB ĐHQG Hà Nội, 2010, tái bản năm 2011, 2015; 2
  8. -“Luật nhân quyền quốc tế: Những vấn đề cơ bản” Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng, NXB Lao động - xã hội, 2011; -“Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự” Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Lê Văn Cảm, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên), NXB ĐHQG Hà Nội, 2011; - “Một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật thi hành án hình sự Việt Nam nhằm bảo vệ quyền con người của người chấp hành án phạt tù” của Nguyễn Thị Lan đăng trên Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội số 3/2015; -Luận án Tiến sĩ Luật học: “Giáo dục phạm nhân trong các trại giam ở Việt Nam” của Ngô Văn Trù, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2015; -Luận văn thạc sĩ Luật học: “Vai trò của VKSND trong việc bảo vệ quyền con người – thực tiễn VKSND huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng” của Vũ Thị Hồng, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2018; -Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Bảo đảm quyền của phạm nhân từ thực tiễn Tổng cục VIII, Bộ Công an” của Hoàng Hữu Duy, Học viện Khoa học xã hội, 2015; -Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân – qua thực tiễn tại Viện Kiểm sát Nhân dân huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định” của Trần Hoàng Nhung, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015; Các công trình nghiên cứu kể trên đã phân tích vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền của phạm nhân dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Những công trình đó đã cung cấp một lượng tri thức, thông tin lớn – là nguồn tư liệu tham khảo quý báu cho việc thực hiện luận văn này. Tuy nhiên, kể từ khi Quốc Hội thông qua Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi và bổ sung năm 2017), Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 và Luật thi hành án hình sự năm 2019, mới chỉ có rất ít đề tài nghiên cứu về bảo đảm 3
  9. quyền của phạm nhân mà cập nhật những quy định của các văn bản pháp luật mới đã nêu. Đặc biệt là vấn đề bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo của VKSND. Ngoài ra, chưa có công trình nghiên cứu nào về vấn đề này ở địa bàn tỉnh Cao Bằng. Vì vậy, luận văn này vẫn có tính cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Vì vậy, luận văn này vẫn có tính cấp thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1.Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo của VKSND; đánh giá thực tiễn bảo đảm quyền của phạm nhân tại VKSND tỉnh Cao Bằng; từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát giam giữ, cải tạo để đảm bảo quyền cho phạm nhân ở địa bàn nghiên cứu. 3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn xác định những nhiệm vụ nghiên cứu cần thực hiện gồm: -Nghiên cứu cơ sở lý luận về bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo. Cụ thể là phân tích khái niệm quyền con người, quyền của phạm nhân; đặc điểm, các quyền cơ bản của phạm nhân cần được bảo đảm; các hoạt động chính của VKSND trong kiểm sát giam giữ, cải tạo và ý nghĩa của nó đối với việc bảo đảm quyền cho phạm nhân, -Khảo sát, đánh giá thực trạng bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát của VKSND tỉnh Cao Bằng trong khoảng 5 năm gần đây, qua đó chỉ ra được những ưu điểm, hạn chế, và lý giải nguyên nhân của thực trạng đó. 4
  10. -Đề xuất được các quan điểm, giải pháp để nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động giam giữ, cải tạo của VKSND nhằm đảm bảo quyền cho phạm nhân từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1.Đối tượng nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực trạng bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo của VKSND tỉnh Cao Bằng. 4.2.Phạm vi nghiên cứu của luận văn Về mặt nội dung, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo của VKSND, không mở rộng đến các hoạt động kiểm sát khác của VKSND, cũng như những hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng khác. Về mặt không gian, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về thực trạng bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo tại tỉnh Cao Bằng, không mở rộng đến các địa phương khác. Về mặt thời gian, luận văn chỉ khảo sát, phân tích thực trạng thực thi pháp luật về bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo tại VKSND tỉnh Cao Bằng trong thời gian từ năm 2015 (khi Bộ luật TTHS mới được thông qua) đến năm 2020. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1.Phương pháp luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền con người và bảo đảm quyền con người. 5
  11. 5.2.Phương pháp nghiên cứu Quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh được sử dụng để làm rõ các vấn đề lý luận và nội dung trong quy định của luật pháp quốc tế, pháp luật Việt Nam về bảo đảm quyền của phạm nhân nói chung và trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo nói riêng. - Phương pháp quan sát thực tế và trao đổi ý kiến với những chuyên gia, cán bộ, kiểm sát viên có kinh nghiệm thực tiễn, để tìm ra những khó khăn, vướng mắc trong việc bảo đảm quyền của phạm nhân nói chung và trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo nói riêng ở tỉnh Cao Bằng, từ đó đưa ra các giải pháp sát với thực tế. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Luận văn là công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo ở một địa phương là tỉnh Cao Bằng, vì vậy cung cấp nhiều kiến thức, thông tin về đề tài nghiên cứu cho VKSND và các cơ quan nhà nước khác ở tỉnh này mà có liên quan đến việc bảo đảm quyền của phạm nhân nói chung. Bên cạnh đó, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho VKSND các địa phương khác, góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo nhằm bảo đảm quyền của phạm nhân của toàn ngành kiểm sát trong thời gian tới. Ngoài ra, luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những cơ sở học thuật trong việc giảng dạy, nghiên cứu về vấn đề quyền con người. 6
  12. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành ba chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận, pháp luật về bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo. Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo ở tỉnh Cao Bằng. Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm quyền của phạm nhân trong hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo, từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng. 7
  13. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CỦA PHẠM NHÂN TRONG HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT GIAM GIỮ, CẢI TẠO 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của việc bảo đảm quyền của phạm nhân 1.1.1.Khái niệm và đặc điểm quyền của phạm nhân Cho tới nay, vẫn chưa có một văn bản pháp lý nào đưa ra định nghĩa cụ thể về quyền của phạm nhân. Do đó, để có thể hiểu quyền của phạm nhân là gì, trước hết cần phải biết phạm nhân là ai và họ có đặc điểm gì khác so với công dân bình thường. Thứ nhất, về khái niệm phạm nhân Theo từ điển tiếng Việt, phạm nhân là:“Người có tội, người bị xử án và đang ở tù”[47,tr.34]. Còn trong Từ điển Luật học, khái niệm phạm nhân được hiểu theo hai nghĩa.Theo nghĩa rộng, phạm nhân là người đã bị Tòa án tuyên là có tội phải chịu hình phạt và bản án đã có hiệu lực pháp luật. Theo nghĩa hẹp, phạm nhân là người phạm tội đã bị Tòa án kết án hình phạt tù nhưng đang được cải tạo trong các trại giam, hoặc là người bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành. Tại khoản 1, 2 Điều 3 Luật THAHS năm 2019 quy định, người chấp hành án là người bị kết án, phải chịu hình phạt theo bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật và đã có quyết định thi hành, còn phạm nhân là người đang chấp hành án phạt tù có thời hạn và tù chung thân. Từ những định nghĩa nêu trên, có thể thấy có hai dấu hiệu cơ bản để phân biệt phạm nhân với những đối tượng khác, đó là: Phạm nhân là người đã thực hiện hành vi phạm tội theo quy định của pháp luật và hành vi đó đã bị kết án bằng một bản án có hiệu lực pháp luật (đây là yếu tố để phân biệt 8
  14. phạm nhân đối với người bị tạm giữ hoặc tạm giam); Phạm nhân phải là đối tượng đang chấp hành án phạt tù tại các cơ sở giam giữ, không bao gồm người phạm tội bị xử phạt bằng hình thức phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ, Từ những phân tích như trên, có thể đưa ra một định nghĩa chung như sau:“Phạm nhân là người thực hiện hành vi phạm tội, đã bị tòa án kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân và đang chấp hành án tại các cơ sở giam giữ”. Thứ hai,về khái niệm “Quyền” Khái niệm quyền trong khoa học pháp lí dùng để chỉ những điều mà pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá nhân, tổ chức mà theo đó cá nhân, tổ chức được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không bị chủ thể nào ngăn cản, hạn chế một cách tuỳ tiện. Dấu hiệu đặc trưng thứ nhất của quyền, theo nghĩa là một thuật ngữ pháp lý, là phải có sự ghi nhận trong pháp luật và được bảo đảm thực hiện bởi các quy định của pháp luật. Dấu hiệu thứ hai là phải có sự thừa nhận về mặt xã hội, gắn liền với chủ thể cá nhân, được thể hiện cụ thể trong thực tế đời sống thông qua các quan hệ xã hội cụ thể của cá nhân trong một cộng đồng nhất định. Thứ ba, về khái niệm quyền con người và quyền của phạm nhân Quan niệm về quyền con người đã được nhiều nhà tư tưởng bàn đến từ thời cổ đại và không ngừng được phát triển, bổ sung cùng với quá trình phát triển của lịch sử nhân loại. Ở Việt Nam, bên cạnh thuật ngữ "quyền con người”, còn có thuật ngữ "nhân quyền”. Cả hai thuật ngữ này đều bắt nguồn từ thuật ngữ tiếng Anh "Human rights” (dịch trực tiếp sang tiếng Việt là quyền con người; còn dịch qua Hán - Việt là nhân quyền). Theo Đại Từ điển tiếng Việt, quyền con người và nhân quyền là hai từ đồng nghĩa [28, tr6]. 9
  15. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lenin, vấn đề quyền con người về bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội. Quyền con người là những giá trị đặc thù chỉ con người mới có, với tư cách là con người, là thành viên xã hội loài người [13, tr.14]. Theo quan điểm Mác-xít, quyền con người không phải chỉ là phép cộng đơn giản của hai mặt tự nhiên và xã hội, mà có những thuộc tính phức tạp thể hiện sự thống nhất giữa hai mặt đối lập. Trên phạm vi quốc tế, theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người,“Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người” [28, tr.22]. Quyền con người từ lâu đã được ghi nhận trong nhiều văn kiện chính trị, pháp lý của nhiều quốc gia. Ví dụ, trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 đã ghi nhận:“Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền được bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đó có quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc”.Trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1791, các quyền con người và quyền công dân cũng được khẳng định và cụ thể hoá thành các quyền cụ thể. Ở Việt Nam, vấn đề quyền con người từ lâu đã được phản ánh trong nhiều văn kiện chính trị, pháp lý của Đảng và Nhà nước. Theo Từ điển Luật học “Quyền con người là các quyền tất yếu mà con người phải được hưởng và các quốc gia phải tôn trọng” [12, tr.338]. Cũng có một định nghĩa khác được sử dụng khá phổ biến, theo đó, quyền con người được xem là những năng lực và nhu cầu vốn có và chỉ có ở con người, với tư cách là thành viên cộng đồng nhân loại, được thể chế hóa bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. 10
  16. Từ những định nghĩa nêu trên, có thể hiểu: “Quyền con người là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người, được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế”. Quyền con người là những giá trị tự nhiên, vốn có, thuộc về tất cả mọi thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt về bất kỳ yếu tố nào. Mặc dù vậy, theo quy định của pháp luật, đối với những người thực hiện hành vi phạm tội sẽ bị xử phạt bằng nhiều hình thức khác nhau, trong đó có hình phạt tù (gồm tù có thời hạn và tù chung thân). Việc họ trở thành phạm nhân đồng nghĩa với việc tư cách pháp lý của họ sẽ thay đổi so với một công dân bình thường. Điều đó thể hiện rất rõ nét ở việc phạm nhân bị tước hoặc bị hạn chế một số quyền cơ bản như: tự do hội họp, tự do đi lại, tự do cư trú, quyền ứng cử Tuy nhiên, hạn chế đó không có nghĩa là họ mất hết các quyền con người, cũng như không còn tư cách chủ thể của quyền con người. Trong thời gian chấp hành án, phạm nhân vẫn được hưởng các quyền cơ bản như quyền được sống, quyền lao động, học tập Nói cách khác, phạm nhân vẫn là con người, do vậy họ vẫn được hưởng các quyền nhất định dựa trên đặc điểm, hoàn cảnh, địa vị của họ. Họ chỉ bị tước hoặc hạn chế một số quyền theo luật định, để bảo vệ lợi ích cao hơn là sự an toàn của cộng đồng. Như vậy, từ những phân tích trên, có thể hiểu quyền của phạm nhân cũng là một phần của các quyền con người nói chung, được pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện cho những người đang chấp hành án phạt tù tại các cơ sở giam giữ. 1.1.2.Khái niệm và ý nghĩa của việc bảo đảm quyền của phạm nhân Quyền con người mang bản chất tự nhiên, bẩm sinh, vốn có, tất cả mọi người sinh ra đều được hưởng những quyền con người cơ bản như quyền được sống, quyền được tự do ăn, mặc, Tuy nhiên, trong nhiều hoàn cảnh, bản thân mỗi con người không thể tự mình bảo đảm quyền của mình. Con 11
  17. người chỉ có thể được hưởng quyền một cách trọn vẹn khi xã hội, pháp luật ghi nhận và có cơ chế để bảo vệ các quyền của họ. Đối với các phạm nhân cũng vậy, quyền của phạm nhân sẽ chỉ là nhu cầu và khả năng ở dạng tiềm năng mà không thể trở thành hiện thực nếu như không có các điều kiện để bảo đảm thực hiện. Theo Từ điển tiếng Việt, “bảo đảm” có nghĩa là “làm cho chắc, thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết”[48, Tr.24]. Quá trình bảo đảm bất kỳ một điều gì, trong đó bao gồm bảo đảm quyền của phạm nhân, đều chịu sự tác động của những yếu tố khách quan và chủ quan, ví dụ như yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật đặc biệt là pháp luật - yếu tố do nhà nước tạo lập và tổ chức thực hiện. Như vậy, trong thực tế, bảo đảm quyền của phạm nhân về cơ bản chính là việc nhà nước sử dụng công cụ pháp luật và toàn bộ thiết chế của mình để tạo điều kiện thực hiện và chống lại sự xâm hại đến các quyền của nhóm đối tượng này. Trong các yếu tố bảo đảm đã nêu trên thì pháp luật là yếu tố cơ bản, đóng vai trò quan trọng nhất, bởi lẽ pháp luật là hệ thống các quy tắc cư xử do nhà nước ban hành và bắt buộc tất cả các chủ thể trong xã hội phải tuân thủ. Khi các quyền của phạm nhân được pháp luật ghi nhận thành các điều luật cụ thể thì tất cả các chủ thể có liên quan đều phải chấp hành nghiêm chỉnh, nếu như chủ thể nào làm trái với những nguyên tắc đó thì sẽ bị xử lý bằng những chế tài nhất định. Do vậy, pháp luật là yếu tố không thể thiếu để hiện thực hoá các quyền của phạm nhân. Ở Việt Nam hiện nay, pháp luật đã ghi nhận những quyền cơ bản của phạm nhân, trong đó thể hiện rõ nét nhất qua các quy định về quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp năm 2013, và đặc biệt là quy định về quyền của phạm nhân trong Luật THAHS năm 2019, BLHS và BLTTHS. 12
  18. Một yếu tố nữa cũng có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền của phạm nhân chính là các chủ thể có nghĩa vụ/trách nhiệm quản lý phạm nhân. Có khá nhiều chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật cùng với phạm nhân, tuy nhiên chủ thể tiếp cận gần nhất và có tần suất cao nhất với các phạm nhân chính là giám thị tại các cơ sở giam giữ, cải tạo. Theo quy định của pháp luật thì giám thị có nghĩa vụ theo dõi, giám sát việc cải tạo, rèn luyện của các phạm nhân trong quá trình chấp hành án. Chính vì vậy, quyền của phạm nhân có được bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật hay không phụ thuộc rất lớn vào việc chấp hành pháp luật và đạo đức của các giám thị trại giam. Bên cạnh giám thị còn có nhiều chủ thể khác cũng có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quyền của phạm nhân như VKSND, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, Trong quá trình cải tạo phạm nhân vẫn phải thực hiện các hoạt động sống cơ bản của con người như ăn, mặc, ngủ, khám chữa bệnh, lao động, do đó, chất lượng của cơ sở vật chất như phòng giam, thức ăn hàng ngày, thuốc men, cũng là những yếu tố quyết định đến việc bảo đảm một số quyền của phạm nhân theo quy định của pháp luật. Yếu tố này có mối liên hệ chặt chẽ đối với hai yếu tố đã nêu trên, tức là hệ thống pháp luật và con người. Nếu cơ sở vật chất tốt, phù hợp với quy định của pháp luật và các chủ thể có liên quan có trách nhiệm cao thì quyền của phạm nhân sẽ được bảo đảm một cách toàn diện và đầy đủ. Ngược lại, dù bất kỳ yếu tố nào trong số các yếu tố đã nêu có chất lượng kém thì quyền của phạm nhân đều sẽ không được bảo đảm trong thực tế. Như vậy, từ những phân tích ở trên, có thể hiểu “Bảo đảm quyền của phạm nhân là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, pháp lý để phạm nhân thực hiện được các quyền của họ mà đã được pháp luật ghi nhận”. 13
  19. Bảo đảm quyền của phạm nhân có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc giáo dục, cải tạo phạm nhân. Thực tế cho thấy chỉ khi các quyền của họ được bảo đảm, phạm nhân mới yên tâm chấp hành án, nỗ lực cải tạo, học tập, rèn luyện để trở thành người tốt. Mỗi khi có một quyền của phạm nhân bị vi phạm đều có thể xảy ra những rủi ro trong việc quản lý phạm nhân, chẳng hạn như khiến cho phạm nhân phản kháng, hoặc làm cho họ trở nên lười biếng, bất cần, thiếu tích cực trong lao động, cải tạo. Như vậy, có thể nói rằng, hiệu quả bảo đảm quyền của phạm nhân tỷ lệ thuận với những thành tựu, kết quả trong hoạt động của các cơ sở giam giữ. 1.1.3. Các quyền của phạm nhân cần được bảo đảm Trong thời gian chấp hành án phạt tù, phạm nhân bị hạn chế một số quyền, nhưng vẫn được hưởng các quyền cơ bản khác của con người. Thực tiễn công tác thi hành án hình sự cho thấy, việc hiểu rõ phạm nhân bị hạn chế những quyền gì và vẫn được hưởng những quyền gì có ý nghĩa cực kì quan trọng đối với cơ quan thi hành án. Nó không chỉ dừng lại ở mức độ nhận thức, mà còn thể hiện trong việc vận dụng các quy định của pháp luật trong công tác quản lý, giáo dục phạm nhân. Đồng thời, nhận thức về quyền của phạm nhân còn là cơ sở để tiến hành các biện pháp quản lý, ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Từ các quy định có liên quan của luật nhân quyền quốc tế và pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam,có thể khái quát các quyền cơ bản của phạm nhân cần được bảo đảm thành các nhóm như sau: - Nhóm quyền được bảo vệ an toàn về thân thể, tôn trọng nhân phẩm: Nhóm quyền này gồm các quyền cụ thể như: quyền bất khả xâm phạm về thân thể, danh dự, nhân phẩm; quyền bình đẳng trước pháp luật; quyền được bảo vệ khỏi các hành động tra tấn, đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo Đây là 14
  20. nhóm quyền rất quan trọng và thường bị vi phạm trong quá trình giam giữ, vì vậy cần phải được các trại giam chú trọng một cách đặc biệt. - Nhóm quyền được bảo đảm về y tế: Nhóm này bao gồm các quyền như: quyền được thăm, khám sức khoẻ; quyền được điều trị khi bị ốm, đau, tai nạn; quyền được bảo đảm các điều kiện vệ sinh, được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc y tế khác Đây cũng là nhóm quyền rất quan trọng đối với những người đang trong hoàn cảnh bị giam giữ, bởi lẽ trong bối cảnh đó họ thường gặp nhiều rủi ro về sức khoẻ. - Nhóm quyền bảo đảm các điều kiện sống cơ bản, trong đó bao gồm các quyền như: quyền về nơi ở (nơi giam giữ); quyền được cung cấp khẩu phần lương thực, thực phẩm thích đáng để duy trì sức khoẻ; quyền được bảo đảm có lương thực, thực phẩm không ô nhiễm và phù hợp về văn hoá; quyền được cung cấp các nhu yếu phẩm (chăn, màn, quần áo, đồ vệ sinh ) tối thiểu. Đây cũng là nhóm quyền quan trọng khác, bởi nó bảo đảm nhu cầu tối thiểu về ăn, mặc, ở của phạm nhân. - Nhóm các quyền khác: Nhóm này bao gồm nhiều quyền khác của phạm nhân, bao gồm quyền được lao động, học văn hoá, học nghề; quyền được thực hành tôn giáo, tín ngưỡng; quyền được liên lạc với bên ngoài; quyền được người thân thăm gặp; quyền được xét ân xá, đặc xá; quyền được khiếu nại, tố cáo, Đây cũng là những quyền không thể thiếu với phạm nhân, là cơ sở để bảo đảm đời sống bình thường và hài hoà đến mức độ nhất định của phạm nhân trong môi trường bị tước tự do. 1.2. Hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo và ý nghĩa của nó với việc bảo đảm quyền của phạm nhân 1.2.1.Hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo của Viện kiểm sát Theo quy định của Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014 thì VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước 15
  21. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. VKSND có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Theo quy định trên,VKSND có hai chức năng cơ bản là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, trong đó chức năng thứ hai là hoạt động của Viện KSND để kiểm tra tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đến việc thi hành án, giải quyết khiếu nại tố cáo trong hoạt động tư pháp. Hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo cũng là một trong các hoạt động kiểm sát của VKSND. Thi hành án phạt tù là việc cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của Luật THAHS năm 2019 buộc phạm nhân phải chịu sự giam giữ, quản lý, giáo dục, cải tạo tại trại giam để trở thành người có ích cho xã hội. Như vậy, có thể thấy kiểm sát thi hành án phạt tù hay kiểm sát giam giữ, cải tạo chính là một. Kiểm sát thi hành án phạt tù (kiểm sát giam giữ, cải tạo) là hoạt động của VKSND trong việc áp dụng các biện pháp do pháp luật quy định để kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án và các cơ quan quản lý, thi hành án hình sự, trong đó bao gồm các cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm trong việc thi hành án phạt tù, nhằm bảo đảm việc thi hành án phạt tù được thực hiện đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời. Đối tượng của công tác kiểm sát giam giữ, cải tạo là việc tuân theo pháp luật của Tòa án, cơ quan quản lý, thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành án hình sự và cá nhân có trách nhiệm trong thi hành án phạt tù. 16
  22. Phạm vi công tác kiểm sát thi hành án phạt tù bắt đầu từ khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật đến khi bản án phạt tù được chấp hành xong, hoặc người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt tù. Trong quá trình kiểm sát việc chấp hành pháp luật trong công tác quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, nếu phát hiện có vi phạm của cơ quan, tổ chức thì tùy theo tính chất, hậu quả, loại vi phạm mà VKSND quyết định áp dụng biện pháp loại trừ vi phạm, cụ thể như: ra quyết định trả tự do, kháng nghị yêu cầu đình chỉ thi hành hoặc bãi bỏ quyết định vi phạm, chấm dứt hành vi vi phạm, kiến nghị khắc phục, phòng ngừa vi phạm, khởi tố hoặc yêu cầu khởi tố về hình sự. Bằng cách đó, VKSND góp phần khắc phục những sai lầm, khôi phục lại những quyền, lợi ích hợp pháp không bị pháp luật tước bỏ của người đang phải chấp hành án. 1.2.2.Ý nghĩa của hoạt động kiểm sát giam giữ, cải tạo đối với việc bảo đảm quyền của phạm nhân Công tác kiểm sát giam giữ, cải tạo là một trong những chức năng, nhiệm vụ quan trọng của VKSND trong việc kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong quá trình thực hiện chức năng của mình, VKSND sử dụng các quyền năng và biện pháp đa dạng để bảo vệ quyền con người của phạm nhân, như: kháng nghị hoặc kiến nghị các quyết định và hành vi vi phạm pháp luật trong thi hành án phạt tù; quyết định trả tự do cho người đang chấp hành án phạt tù không có căn cứ và trái pháp luật; khởi tố hoặc yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố về hình sự Các biện pháp này nhằm bảo đảm trong thi hành án phạt tù, quyền con người, các quyền và lợi ích hợp pháp của phạm nhân phải được mọi tổ chức, cá nhân tôn trọng, bảo vệ. Mọi bản án có hiệu lực phải được thực hiện nghiêm chỉnh, mọi vi phạm pháp luật trong công tác giam giữ, quản lý phạm nhân phải được kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh. 17