Luận văn Bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm giữ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh

pdf 82 trang vuhoa 23/08/2022 9420
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm giữ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_bao_dam_quyen_con_nguoi_doi_voi_nguoi_bi_tam_giu_tr.pdf

Nội dung text: Luận văn Bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm giữ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN ĐỨC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN ĐỨC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH THỊ MAI HÀ NỘI - 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực. Kết quả nghiên cứu nêu trong Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Văn Đức
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜICỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ TRONG PHÁP LUẬTTỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 9 1.1. Một số khái niệm liên quan đến bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ 9 1.2. Các quyền con người của người bị tạm giữ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam 19 1.3. Nội dung bảo đảm quyền của người bị tạm giữ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam 25 1.4. Các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền của người bị tạm giữ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam 29 Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦANGƯỜI BỊ TẠM GIỮ TẠI ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 37 2.1. Tổng quan về tình hình tạm giữ trong tố tụng hình sự tại địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 37 2.2. Thực trạng thực hiện quyền con người của người bị tạm giữ trong tố tụng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 38 2.3. Thực trạng các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền con người của người bị tạm giữ trong tố tụng hình sựThành phố Hồ Chí Minh 45 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢMQUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮTRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 57 3.1. Định hướng và quan điểm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trong pháp luật Tố tụng hình sự 57 3.2. Giải pháp hoàn thiện và hướng dẫn áp dụng pháp luật về bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự 63 3.3. Giải pháp đối với thực tiễn bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 67 KẾT LUẬN 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT - BLHS : Bộ luật hình sự - BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự - CQĐT : Cơ quan điều tra - ĐTV : Điều tra viên - KSV : Kiểm sát viên - VKS : Viện Kiểm Sát - VKSND : Viện Kiểm Sát Nhân Dân - XHCN : Xã Hội Chủ Nghĩa
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xu thế toàn cầu hóa, nhiều nước đã tham gia Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua Nghị quyết số 2200 ngày 16/12/1966 có hiệu lực ngày 23/3/1976 và để ngỏ cho các quốc gia ký, phê chuẩn và gia nhập. Công ước này nằm trong hệ thống Luật nhân quyền quốc tế, ở đó quyền con người được tôn trọng và bảo vệ mặc dù có những nước đã ký nhưng không tham gia hoặc không ký kết cũng không tham gia nhưng nó vẫn mang tính pháp lý trong cộng đồng nhân loại và là nền tảng cho tự do, công lý và hòa bình trên thế giới; Nước ta không những đã ký kết và gia nhập Công ước quốc tế nêu trên từ năm 1992 mà quyền con người còn được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật, đây còn là một trong những nội dung và cũng là mục đích của xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay, bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự càng được đề cao. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng định: “Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế XHCN, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm”; đồng thời, đưa ra chủ trương: “hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục đặt ra nhiệm vụ: “Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại; bảo vệ pháp luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân”.Ngày 28/11/2013, Quốc Hội nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam, Khóa XIII, tại kỳ họp thứ 6 đã thông qua và ban hành Hiến pháp năm 2013, trong đó tại Chương II quy định 1
  7. về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã tạo nền tảng pháp lý cao nhất để đảm bảo quyền con người và trở thành mục tiêu động lực mới cho sự phát triển của nước ta. Hoạt động tố tụng hình sự là nơi các biện pháp cưỡng chế Nhà nước được áp dụng phổ biến nhất, ảnh hưởng nhiều nhất đến quyền và nghĩa vụ của công dân nên hoạt động này có nguy cơ dễ xâm hại nhất đến quyền con người của các chủ thể tham gia tố tụng. Tạm giữ là một chế định pháp lý trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, đây là một trong những biện pháp ngăn chặn nhằm hạn chế một số quyền của con người. Mục đích của biện pháp tạm giữ là để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện được tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật và pháp chế XHCN. Nhưng biện pháp tạm giữ cũng như hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng rất dễ xâm phạm đến quyền con người của người bị tạm giữ. Bên cạnh đó, để phục vụ tốt cho hoạt động tố tụng hình sự thì quy định của pháp luật hiện hành về chế độ quản lý giam giữ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam chưa cụ thể như việc thăm gặp thân nhân, người bào chữa của người bị tạm giữ; việc thực hiện các quyền nhân thân của họ nếu không bị hạn chế bởi biện pháp tạm giữ; một số chế độ về ăn, ở, khám chữa bệnh đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam còn chưa phù hợp với điều kiện thực tế; chưa có quy định về chế độ đối với người bị tạm giữ là người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đồng tính hoặc người có khiếm khuyết về giới tính Thực tiễn hoạt động tiến hành tố tụng hình sự trong những năm qua cho thấy còn nhiều trường hợp vi phạm quyền con người của người bị tạm giữ. Có trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng, dẫn đến người bị tạm giữ chết hoặc bị bức cung, nhục hình làm quyền con người bị xâm phạm và tình trạng oan sai vẫn xảy ra. Những trường hợp vi phạm quyền con người đối với người bị tạm giữ do nhiều nguyên nhân; trong đó, có những bất cập, hạn chế của pháp luật, cơ chế, nhận thức, 2
  8. thái độ của người tiến hành tố tụng; các quy định về chế độ trách nhiệm của Nhà nước, cơ quan, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, có thể nói nghiên cứu việc bảo đảm quyền con người của các chủ thể tham gia tố tụng nói chung, người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự nói riêng từ góc độ lập pháp cũng như áp dụng pháp luật có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Trong khoa học pháp lý ở nước ta, vấn đề bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự, quyền con người của người bị tạm giữ đã được nhiều tác giả nghiên cứu với các mức độ khác nhau. Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu về bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm giữ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, mảng tri thức về vấn đề này hiện còn nhiều nội dung cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc về bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm giữ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minhlà yêu cầu khách quan và cần thiết, nhằm lý giải một cách khoa học những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra hiện nay. Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng trong định hướng cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta. Từ những lý do trên tác giả đã chọn đề tài: “Bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm giữ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” làm Luận văn Thạc sĩ luật học là có tính cấp thiết. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Theo thông tin tra cứu tại Thư viện Quốc gia, Thư viện Khoa học tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thư viện các cơ sở đào tạo Luật của Việt Nam, các tạp chí khoa học chuyên ngành luật và các nguồn thông tin khác, tính đến thời điểm nghiên cứu mà tác giả tiếp cận có một số công trình nghiên cứu về đề tài này dưới nhiều góc độ khác nhau. 3
  9. Các công trình nghiên cứu về bảo đảm quyền con người nói chung trong Nhà nước pháp quyền có sách chuyên khảo “Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam” của GS.TS. Trần Ngọc Đường; Sách chuyên khảo “Quyền lực Nhà nước và quyền con người” của PGS.TS. Đinh Văn Mậu; bài báo “Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người” của TS. Tường Duy Kiên, “Hỏi – Đáp về quyền con người và nghĩa vụ của công dân” của PGS.TS. Vũ Công Giao. Các tác giả đã đưa ra quan niệm về quyền con người, các đặc trưng về quyền con người; nghiên cứu mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân; khẳng định yêu cầu bảo đảm quyền con người trong Nhà nước pháp quyền. Các công trình nghiên cứu chuyên ngành về bảo đảm quyền con ngườitrong tố tụng hình sự có Sách chuyên khảo “Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật Tố tụng Hình sự Việt Nam” của TS. Trần Quang Tiệp; Sách chuyên khảo “Các nguyên tắc tố tụng hình sự” của PGS.TS. Hoàng Thị Sơn và TS.Bùi Kiên Điện; Đề tài Nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” do GS.TSKH. Lê Văn Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí, Ths. Trịnh Quốc Toản đồng chủ trì; Luận án Tiến sĩ “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam” của Nguyễn Quang Hiền; Luận án Tiến sĩ Luật học “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Huy Hoàng; Báo cáo “Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam” của PGS.TS. Nguyễn Thái Phúc tại Hội thảo về Quyền con người trong tố tụng hình sự do VKSND tối cao và Ủy ban Nhân quyền Australia tổ chức tháng 3/2010; Bài báo khoa học “Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự”của GS.TSKH Lê Văn Cảm; Bài báo khoa học “Thực hiện dân chủ trong tố tụng hình sự trong bối cảnh cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Mạnh Kháng; Bài báo khoa học “Bảo vệ quyền con người củangười bị tạm giữ trong tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của PGS.TS Trần Văn Độ; 4
  10. Bài báo khoa học “Bảo đảmquyền con người củangười bị tạm giữ trong tố tụng hình sự Việt Nam” của Nguyễn Tiến Đạt. Trong các công trình nêu trên, các tác giả nghiên cứu việc bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp, một số công trình nghiên cứu vấn đề từ góc độ tư pháp hình sự, bao gồm cả luật hình sự và luật tố tụng hình sự, một số công trình khác thì nghiên cứu từ góc độ tố tụng hình sự. Do phạm vi nghiên cứu của các công trình trên quá rộng nên các tác giả chỉ nghiên cứu tập trungvề quyền con người của người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự. Qua khảo sát tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Luận văn, thấy rằng tuy có nhiều công trình đề cập đến vấn đề bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự,nhưng chưa có công trình nào tiếp cận một cách toàn diện, hệ thống, đồng bộ về vấn đề bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự. Nhiều vấn đề lý luận quan trọng còn bị bỏ ngỏ hoặc đã được đề cập ở mức độ nhất định nhưng còn thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất. Do vậy, vẫn còn nhiều khía cạnh cần được tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu về đề tài bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm giữ trong tố tụng hình sựViệt Nam, đặc biệt là nghiên cứu từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh. Việc tiếp tục nghiên cứu về đề tài này là đòi hỏi khách quan, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự, bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự, nghiên cứu thực trạng quy định pháp luật cũng như thực tiễn hoạt động tố tụng hình sự để làm sáng tỏ những bất cập hạn chế, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự Việt Nam là được tôn trọng và được bảo vệ. Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là làm rõ những vấn đề lý luận về quyền con người và các biện pháp bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự. Phân tích các quy định 5
  11. của BLTTHS liên quan đến bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, tìm ra những hạn chế và bất cập về bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trong thực tiễn điều tra vụ án hình sự. Nghiên cứu một số kinh nghiệm của luật pháp quốc tế về bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. Kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trong hoạt động tố tụng hình sự. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy định về bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, những hạn chế, bất cập khó khăn trong quy định của pháp luật, những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng, làm cơ sở cho việc đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn áp dụng quy địnhvề bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ tại Việt Nam, trên cơ sở tiếp cận các văn bản pháp luật có liên quan, chủ yếu là văn bản pháp luật tố tụng hình sự ban hành từ năm 1988 đến nay; các quy định của pháp luật hiện hành về chế độ quản lý giam giữ đối với người bị tạm giữ, thông tin từ các báo cáo công tác hàng năm và các thông báo rút kinh nghiệm trong giải quyết án của các cơ quan tiến hành tố tụng cấp tỉnh và trung ương, thông tin vụ án đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng và hồ sơ vụ án.Tập trung chủ yếu vào nội dung bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trong mối liên hệ với các chế định khác của tố tụng hình sự. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Quá trình nghiên cứu đề tài được thực hiện trên cơ sở gắn liền lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, về cải cách tư pháp. Việc 6
  12. nghiên cứu được thực hiện từ góc độ lý luận chung về quyền con người nói chung và từ góc độ tố tụng hình sự nói riêng. Các vấn đề trong Luận án được phân tích, lý giải trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn - Về mặt khoa học: Đề tài đã góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự.Phân tích có hệ thống các quy định của BLTTHS và đánh giá đầy đủ, toàn diện thực tiễn bảo đảm quyền con người đối với người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự Việt Nam cũng như các quy định của pháp luật về chế độ quản lý giam giữ đối với người bị tạm giữ.Từ đó tìm ra những hạn chế, bất cập về bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự và nguyên nhân của những bất cập, hạn chế.Đưa ra được một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trong hoạt động tố tụng hình sự. - Về mặt thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu của Đề tài là cơ sở thực tiễn trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự. Đồng thời tìm ra những giải pháp và kiến nghị cũng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Với ý nghĩa như vậy, kết quả nghiên cứu của Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và đào tạo về pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. 7. Cơ cấu của Luận văn Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục thì nội dung được chia làm 3 chương như sau: - Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trong pháp luật tố tụng hình sự - Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ tại địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh 7
  13. - Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự Việt Nam 8
  14. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Một số khái niệm liên quan đến bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ 1.1.1. Khái niệm quyền con người và bảo đảm quyền con người 1.1.1.1. Khái niệm quyền con người Trong lịch sử của nhân loại, thuật ngữ quyền con người hay còn gọi là nhân quyền đã được thể hiện trong các đạo luật của chiến tranh hoặc những nhà nghiên cứu thường trích dẫn những bộ luật cổ của những quốc gia khác nhau, khu vực khác nhau để phân tích sự phát triển của tư tưởng nhân quyền. Tuy nhiên, vẫn chưa có quan niệm thống nhất về quyền con người. Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, quyền con người mới được các nhà tư tưởng bàn đến như là một học thuyết và được đề cập trong pháp luật quốc tế. Quan niệm thứ nhất, những người theo học thuyết tự nhiên như Tômát Hôphơ (Thomas Hobbes.1588-1679), Giôn Lốccơ (John Looke. 1632-1704) Tômát Pên (Thomas Pain.1737-1809) cho rằng quyền con người là đặc quyền tự nhiên, là những gì bẩm sinh vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng, chỉ đơn giản họ là thành viên của gia đình nhân loại. Do đó, các quyền con người không phụ thuộc vào phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất cứ cá nhân, giai cấp, tầng lớp, tổ chức, cộng đồng hay nhà nước nào.Cũng do đó, không một chủ thể nào, kể cả nhà nước có thể ban phát hay tùy tiện tước bỏ quyền con người. Quan niệm thứ hai, những người theo học thuyết về các quyền pháp lý như Étmơn Buốccơ (Edmund Burker.1729-1797), Giêrêmi Benthơm (Jeremy Bentham. 1748-1832) cho rằng quyền con người không phải là những gì bẩm sinh, vốn có mà phải do nhà nước quy định trong pháp luật. Như vậy quyền con người có phạm vi, giới hạn ở góc độ nhất định, kể cả thời hạn hiệu lực của các quyền con người 9
  15. phụ thuộc vào ý chí của tầng lớp thống trị và những yếu tố như phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa của từng xã hội. Học thuyết Mác - Lênin là một chỉnh thể thống nhất thể hiện những tư tưởng nhân văn chân chính của loài người, kế thừa một cách biện chứng những giá trị tinh hoa của con người. C.Mác đã xuất phát từ con người là một thực thể thống nhất, một “sinh vật - xã hội”. Do đó, quyền con người là sự thống nhất biện chứng giữa quyền tự nhiên (như một đặc quyền vốn có mà chỉ con người mới có) và quyền xã hội(pháp lý); quyền con người được quy định bởi các quy chế pháp lý nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Liên Hiệp Quốc là một tổ chức quốc tế có 193 thành viên, bao gồm hầu hết các quốc gia có chủ quyền trên trái đất với mục đích hoạt động là duy trì hòa bình và an ninh trên thế giới. Trong đó, vấn đề quyền con người luôn coi trọng và cần thiết để duy trì hòa bình và an ninh thế giới. Do đó, Liên Hiệp Quốc đã soạn thảo nhiều văn kiện quốc tế về quyền con người, các quyền tự do cơ bản của con người. Ngay trong phần mở đầu của bản Hiến chương Liên Hiệp Quốc đã nêu rõ “sự tin tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con người, ở quyền bình đẳng giữa nam và nữ, ở quyền bình đẳng giữa các nước lớn và nhỏ” và khẳng định, các quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc cam kết “thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, văn hóa và nhân đạo và khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Liên Hiệp Quốc đã thông qua Tuyên ngôn toàn thế giới năm 1948về nhân quyền gồm 30 điều, ghi nhận tất cả các quyền con người trên các lĩnh vực. Có thể nói đâylà văn kiện đầu tiên khẳng định các nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người được ghi nhận trong Hiến chương, thể hiện các quyền tự do của con người một cách cụ thể liên quan đến nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, dân sự. Tuyên ngôn toàn thế giới là tiêu chuẩn thực hiện chung cho tất cả các dân tộc và quốc gia, sao cho quyền con người được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Từ đó, quyền con người đã được thể hiện cụ thể hóa trong Công ước quốc tế 10
  16. về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội và Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (năm 1966). Và theo chúng tôi, khái niệm quyền con người được hiểu là "quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người”. (Công ước quốc tế về quyền con người, New York and Geneva, 2006, tr11). Việc phân định đúng, sai, hợp lý và không hợp lý của các học thuyết nêu trên là không đơn giản do chúng liên quan đến phạm vi rộng lớn như triết học, chính trị, xã hội, đạo đức pháp lý giữa cá nhân với xã hội, giữa tính nhân loại với tính giai cấp, giữa các giá trị đạo đức với pháp luật, giữa quan hệ quốc tế với lợi ích quốc gia, giữa khả năng và nhu cầu tự nhiên. Do đó, có thể cho rằng quyền con người có những đặc trưng, tính chất cơ bản sau: Một là, tính phổ biến thể hiện ở chỗ quyền con người là những giá trị bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại, không có sự phân biệt đối xử vì bất cứ lý do nào. Những giá trị của quyền con người đều gắn với mỗi con người cụ thể nhưng vừa mang tư cách là cá nhân, vừa mang với tư cách là thành viên của xã hội. Vì vậy, quyền con người vừa mang thuộc tính cá nhân, vừa thể hiện lợi ích quốc gia, dân tộc, cộng đồng. Hai là, tính không thể chuyển nhượng thể hiện ở chỗ, các quyền con người không thể bị tước bỏ hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể cả nhà nước. Mọi giới hạn, hạn chế hay tước bỏ quyền của một cá nhân đều phải do pháp luật quy định và chỉ nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng, tương xứng của cộng đồng hay của cá nhân khác. Vì vậy, quyền con người được xã hội hóa bằng cách thể chế hóa thành thành pháp luật quy định các quyền năng cụ thể; bên cạnh đó là những nghĩa vụ tôn trọng quyền con người của cá nhân khác trong xã hội. Ghi nhận quyền con người, pháp luật phản ánh các nhu cầu và khả năng khách quan phù hợp với chế độ chính trị, kinh tế, lịch sử, dân trí cụ thể. Chỉ có thông qua pháp luật thì các giá trị của con người với tư cách là tự nhiên và xã hội 11
  17. mới trở thành quyền được xác định và mới bảo đảm trở thành hiện thực trong thực tiễn. Ba là, tính không thể phân chia thể hiện ở chỗ các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, về nguyên tắc không có quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào, bởi vì tước bỏ hay hạn chế bất kỳ quyền nào đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự phát triển của con người.Tuy nhiện, tùy bối cảnh và những đối tượng cụ thể, có thể ưu tiên thực hiện một số quyền con người nhất định như trong thiên tai, dịch bệnh đe dọa thì quyền ưu tiên thực hiện là được chăm sóc y tế, hoặc cần có những quyền đặc biệt cho phụ nữ, trẻ em do họ là nhóm yếu thế. Điều này không có nghĩa các quyền ưu tiên được thực hiện có giá trị cao hơn mà các quyền đó có nguy cơ bị đe dọa hoặc bị vi phạm nhiều hơn so với quyền khác. Bốn là, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau thể hiện ở chỗ việc bảo đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác, và ngược lại, tiến bộ trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp sẽ ảnh hưởng tích cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Ví dụ, một người không được hưởng quyền học tập, hậu quả là bị mù chữ hoặc văn hóa thấp sẽ khó có thể có nghề nghiệp tốt, thu nhập cao và khó có thể có cơ hội tham gia và thăng tiến trong bộ máy nhà nước. Căn cứ vào tính chất, nội dung của quyền con người có thể chia thành các nhóm cơ bản sau đây: - Quyền chính trị như quyền tham gia quản lý Nhà nước và thảo luận các vấn đề chung của cả nước, quyền bầu cử và ứng cử, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, quyền lập hội, quyền được thông tin, quyền biểu tình, quyền bình đẳng nam nữ, quyền khiếu nại, tố cáo; - Quyền dân sự như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, về chỗ ở, quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, quyền được 12
  18. bảo đảm an toàn và bí mật về thư tín, điện thoại, điện tín, quyền tự do đi lại và cư trú; - Quyền về kinh tế, văn hóa, xã hội bao gồm quyền học tập, lao động, quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản hợp pháp, quyền phát minh, sáng chế, quyền được bảo vệ sức khỏe, quyền được bảo hộ về hôn nhân, gia đình, các quyền của các đối tượng đặc biệt như thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người già, trẻ em, người tàn tật không nơi nương tựa; Ở Việt Nam, một số định nghĩa về quyền con người có nhiều chuyên gia, cơ quan nghiên cứu nhưng cũng không hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên, xét chung thì quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Bên cạnh các khái niệm trên, ở Việt Nam còn hay sử dụng thuật ngữquyền con người là nhân quyền (theo Hán – Việt). Cả hai đều có nội hàm như nhau và tương ứng với thuật ngữ “Human rights” trong tiếng Anh được dịch là quyền con người. Theo Đại từ điển Tiếng Việt,“nhân quyền” chính là “quyền con người” được hiểu chung là những quyền bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu không được hưởng thì con người sẽ không thể sống như một con người. Quyền con người được cấu thành bởi hai yếu tố: một là những đặc quyền vốn có tự nhiên của con người và chỉ con người mới có; hai là quyền tự nhiên vốn có đó khi được pháp luật ghi nhận và điều chỉnh. Quyền con người là sự thống nhất giữa hai yếu tố khách quan và chủ quan được ghi nhận trong pháp luật của mỗi quốc gia và pháp luật quốc tế. 1.1.1.2. Bảo đảm quyền con người Trong nghiên cứu cho thấy giữa quyền con người vàbảo đảm quyền con người có mối liên hệ rất biện chứng với nhau, chúng tác động lên nhau rất lớn; việc bảo đảm quyền con người tác động trực tiếpvà mang tính quyết định đến việc thực hiện các quyền con người khác. Mất quyền con người là mất tất cả các quyền khác như quyền chính trị, quyền bầu cử, quyền lập hội; quyền tự do thân thể, quyền tự do đi lại, quyền lao động, quyền học tập Bên cạnh đó, các quyền của con người cũng 13
  19. phải được bảo đảm ngang bằng nhau, không phân biệt quyền nào quan trọng hơn quyền nào. Liên Hiệp Quốc đã thông qua Tuyên ngôn về những người bảo vệ nhân quyền ngày 09/12/1998: “Tuyên ngôn về quyền và nghĩa vụ của cá nhân, nhóm và tổ chức xã hội trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người và tự do cơ bản được thừa nhận rộng rãi”. Đây là văn kiện đầu tiên của Liên Hiệp Quốc thừa nhận vai trò quan trọng, tính chính đáng trong hoạt động bảo đảm quyền con người, bảo vệ nhân quyền và những yêu cầu với cộng đồng quốc tế và từng quốc gia. Bảo đảm quyền con người không những vừa là quyền vừa là trách nhiệm của mọi cá nhân trong xã hội mà còn có vai trò của nhà nước là chủ thể có trách nhiệm chính trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyềncon người bằng cách tạo ra các cơ chế phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của nhà nước nhằm bảo đảm quyền con người được tốt hơn trong thực tế. Trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, con người được đặt vào vị trí trung tâm trong mọi chính sách kinh tế, xã hội và được tạo mọi điều kiện phát triển. Hiến pháp năm 2013 đã dành Chương 2 với 36 điều quy định về quyền con người, quyền công dân. Về vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân tại Điều 14 Hiến pháp quy định:“Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Như vậy quyền con người đã được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật. 1.1.2. Khái niệm người bị tạm giữ và bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ 1.1.2.1.Khái niệm người bị tạm giữ Tạm giữ là một trong những biện pháp ngăn chặn mà người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối một người đã thực hiện hành vi nguy 14
  20. hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội phạm nhằmkịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ họ sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án thì trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp tạm giữ đối với một người cụ thể theo trình tự thủ tục của BLTTHS để cách ly họ trong thời hạn nhất định. Mặc dù BLHS năm 2015 đã được Nghị quyết số: 144/2016/QH13 của Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XIII thông qua ngày 29/6/2016về việc lùi hiệu lực thi hành nhưng BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại, đây là một nội dung mới làm thay đổi cơ bản chính sách hình sự truyền thống. Nhưng biện pháp tạm giữ chỉ áp dụng đối với cá nhâncụ thể là một con người. Chính vì vậy, biện pháp tạm giữchỉ được áp dụng đối với một người cụ thể chứ không áp dụng đối với pháp nhân; Người bị tạm giữlà một trong những người tham gia tố tụng có vị trí trung tâm trong quá trình giải quyết vụ án bởi họ là người bị cơ quan tiến hành tố tụng tình nghi hoặc bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc bị bắt theo quyết định truy nãvà người đó bị áp dụng biện pháp tạm giữ do người có thẩm quyền thực hiện. Như vậy, khi áp dụng biện pháp ngăn chặn bằng biện pháp tạm giữ ngườithì người bị tạm giữ phải có đủ hai điều kiện: -Về nội dung, một người bị tạm giữ khi có căn cứ cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; người đã thực hiện tội phạm mà có người khác có mặt tại nơi xảy ra tội phạm đã chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người thực hiện tội phạm; người mà thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc nơi ở nên cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ; người bị phát hiện đang thực hiện tội phạm người có lệnh truy nã hoặc người tự thú sau khi thực hiện tội phạm. Trong trường hợp bắt khẩn cấp, bị bắt do phạm tội quả tang, người tự thú, đầu thú, người bị tạm giữ do bị nghi thực hiện tội phạm, nhưng chưa bị cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự. Trường hợp tạm giữ người bị bắt 15