Luận văn Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Kiên Giang
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Kiên Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_bao_dam_quyen_con_nguoi_cua_nguoi_bi_tam_giu_theo_p.pdf
Nội dung text: Luận văn Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Kiên Giang
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ YẾN NHI BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH KIÊN GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ YẾN NHI BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH KIÊN GIANG Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH THỊ MAI HÀ NỘI - 2017
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ THEO PLTTHS VN 6 1.1. Một số khái niệm liên quan đến bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ 6 1.2. Các quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam 122 1.3. Nội dung bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam 255 1.4. Các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền của người bị tạm giữ theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam 32 Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ TỪ THỰC TIỄN TỈNH KIÊN GIANG 38 2.1. Tổng quan thực trạng bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trong Tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Kiên Giang 38 2.2. Thực trạng thực hiện quyền con người của người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Kiên Giang 41 2.3. Thực trạng các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền con người của người bị tạm giữ 53 Chương 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 62 3.1. Định hướng và quan điểm hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trong pháp luật Tố tụng hình sự 622 3.2. Giải pháp bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trong pháp luật Tố tụng hình sự 655 3.3. Giải pháp đối với thực tiễn bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trên địa bàn tỉnh Kiên Giang 68 KẾT LUẬN 733 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 755 PHỤ LỤC
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng CQĐT : Cơ quan điều tra ĐTV : Điều tra viên NTHTT : Người tiến hành tố tụng QĐTT : Quyết định tố tụng TTHS : Tố tụng hình sự VAHS : Vụ án hình sự VKS : Viện kiểm sát XHCN : Xã hội chủ nghĩa
- DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Bảng thống kê tình hình bắt giữ và phân loại từ năm 2011 – 2015 44 Bảng 2.2: Thống kê tình hình giải quyết người bị tạm giữ từ 2011 đến 2015 46
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người là một trong những quyền thiêng liêng, cơ bản và cũng luôn là khát vọng của toàn nhân loại. Quyền con người được sinh ra và đồng thời phải bảo đảm thực hiện như một lẽ tự nhiên. Bảo đảm quyền con người là một trong những nội dung và cũng là mục đích của xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Chăm lo đến con người, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho con người phát triển toàn diện trong việc thực hiện các chính sách kinh tế xã hội, trong các hoạt động Nhà nước là những quan điểm cơ bản được thể hiện trong các văn bản của Đảng và Nhà nước ta. Hiến pháp, pháp luật nói chung và pháp luật TTHS nói riêng đã có những quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ để quyền và lợi ích của họ không bị xâm hại, hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật từ phía các cơ quan THTT. Tuy nhiên, pháp luật về bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ ở nước ta hiện nay vẫn còn một số bất cập, còn những quy định chưa rõ ràng, mâu thuẫn hoặc bỏ ngõ và chưa có sự nhận thức một cách thống nhất về việc áp dụng pháp luật của những người tiến hành tố tụng. Để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp Đảng đã có quan điểm chỉ đạo về cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, được thể hiện rõ tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Bộ chính trị đã xác định mục tiêu là: Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốcViệt Nam XHCN; Thực tiễn áp dụng cho thấy trong quá trình giải quyết vụ án hình sự trên toàn lãnh thổ Việt Nam nói chung và trên địa bàn tỉnh Kiên Giang nói riêng tình trạng cơ quan, cá nhân có thẩm quyền tiến hành tố tụng xâm phạm đến các quyền con người, đặc biệt là quyền của người bị tạm giữ vẫn còn xảy ra. Chính vì vậy, việc nhận thức đầy đủ và hoàn thiện các quy định về bảo vệ quyền của người bị tạm giữ và thực thi những quy định ấy trên thực tế, kiên quyết 1
- xử lý nghiêm khắc các hành vi vi phạm là yêu cầu cấp thiết, góp phần chung vào quá trình xây dựng và phát triển đất nước xây dựng thành công nhà nước pháp quyền XHCN – Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Từ những điều trên học viên chọn đề tài “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Kiên Giang” làm luận văn Thạc sỹ Luật học chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong khoa học pháp lý nước ta cũng như quốc tế, vấn đề bảo đảm quyền con người nói chung, quyền con người trong hoạt động tư pháp cũng như quyền con người trong tố tụng hình sự đã được nhiều tác giả nghiên cứu từ các góc độ và với nhiều mức độ khác nhau. Vấn đề bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam là một vấn đề rất nhạy cảm, phức tạp và luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Liên quan đến vấn đề này nhiều công trình đã được công bố có nội dung đề cập đến vấn đề bảo vệ quyền con người nói chung, trong tố tụng hình sự nói riêng. Cụ thể có nhiều công trình, bài tham luận như: Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam của Tiến sỹ Trần Quang Tiệp; Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự của GS-TSKH Lê Cảm; Mấy ý kiến về bảo vệ con người trong tố tụng hình sự Việt Nam của PGS – TS Phạm Hồng Hải; Đề tài luận văn thạc sỹ: Đảm bảo quyền con người của người bị tạm giữ, bị can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của tác giả Đoàn Văn Thuận; Bảo đảm quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả Nguyễn Tiến Đạt; Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảovệcác quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả Nguyễn Như Hiển; Luận án Tiến sỹ: Bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam của tác giả Lại Văn Trình các tác giả cũng đã phân tích làm rõ quyền con người của người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự Việt Nam, một số tác giả đi sâu nghiên cứu và các nguyên tắc của BLTTHS liên quan 2
- đến quyền con người, một số tác giả đi sâu phân tích về việc bảo đảm thực hiện quyền con người những kết quả của các công trình nghiên cứu này cũng là những tri thức, hiểu biết quan trọng mà tác giả kế thừa có chọn lọc trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình khoa học nào tiếp cận một cách trọn vẹn, toàn diện, hệ thống, đồng bộ về vấn đề bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Kiên Giang. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa những tri thức lý luận nền tảng, tác giả sẽ vận dụng đi sâu nghiên cứu về việc bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Kiên Giang. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nhằm làm sáng tỏ những hạn chế, bất cập, và đưa ra những biện pháp nhằm tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Kiên Giang. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn có nhiệm vụ: (1) nghiên cứu, làm rõ các vấn đề lý luận chung về quyền con người của người bị tạm giữ, (2) phân tích thực trạng quy định và thực hiện pháp luật tố tụng hình sự về quyền con người của người bị tạm giữ trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, (3) đưa ra những giải pháp nhằm tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Kiên Giang. Để nghiên cứu về quyền con người của người bị tạm giữ tác giả dựa trên số liệu thống kê của Viện kiểm sát Nhân dân tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2011-2015 để đánh giá. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về việc bảo đảm quyền con người dưới góc độ lý luận, thực tiễn áp dụng từ năm 2011-2015 thực tiễn tỉnh Kiên Giang. 3
- 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Trong quá trình thực hiện luận văn, học viên chủ yếu dựa trên cơ sở nhận thức lý luận về phép biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm chính sách của Đảng và Nhà nước và pháp luật về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa về bảo đảm quyền con người, quyền con người của người bị tạm giữ. Phương pháp luận nghiên cứu của Luận văn được thực hiện theo phương pháp luận của khoa học Luật tố tụng hình sự, trong đó có sử dụng tri thức của các lĩnh vực khoa học Luật Hình sự, Nhân quyền học cũng như cách tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Các phương pháp cụ thể được sử dụng trong quá trình nghiên cứu kết hợp việc sử dụng các phương pháp như phương pháp lý luận, phân tích, so sánh, chứng minh được sử dụng để làm rõ những vẫn đề lý luận chung về bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ. Phương pháp nghiên cứu, lý luận, phân tích, hệ thống, đối chiếu, suy luận, logic được sử dụng để làm rõ các vấn đề thực trạng về quyền con người của người bị tạm giữ từ thực tiễn tỉnh Kiên Giang. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phân tích, suy luận logic được sử dụng để kiến nghị hoàn thiện các giải pháp bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Đề tài góp phần bổ sung hoàn thiện hơn về vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con ngừời của người bị tạm giữ, góp phần thực hiện áp dụng pháp luật hiệu quả trong thực tiễn bảo đảm quyền con người nói chung và quyền của người bị tạm giữ nói riêng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn 4
- Đề tài là một đóng góp khiêm tốn trong việc giải quyết một trong những nội dung cấp thiết hiện nay là vấn đề về quyền con người. Quy định về quyền con người là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, để quyền đó được thực thi trong cuộc sống, được mọi người tuân thủ và tôn trọng là vấn đề hết sức cần thiết và tất yếu. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 03 chương với cơ cấu như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật TTHS Việt Nam Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ từ thực tiễn tỉnh Kiên Giang Chương 3: Giải pháp bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ. 5
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ THEO PHÁP LUẬT TTHS VIỆT NAM 1.1. Một số khái niệm liên quan đến bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ 1.1.1 Khái niệm quyền con người và bảo đảm quyền con người “Quyền con người là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa khác nhau (theo một tài liệu của Liên hợp quốc, có đến gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố)1. Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một gốc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người [16, tr.41]. Trong lịch sử chính trị - tư tưởng của nhân loại, thuật ngữ quyền con người (nhân quyền) thường được sử dụng, nhưng cho đến nay chưa có quan niệm hoàn toàn thống nhất về quyền con người trên phạm vi toàn thế giới cũng như trong phạm vi mỗi quốc gia. Trên lập trường duy vật và trên cơ sở phương pháp luận khoa học biện chứng, Chủ nghĩa Mác –Lê Nin đưa ra quan niệm về vấn đề quyền con người xuất phát từ quan niệm coi con người vừa là sản phẩm tự nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội và do đó quyền con người “về bản chất bao hàm cả hai mặt tự nhiên và xã hội” [8, tr.12]. Xét về mặt tự nhiên, quyền con người không phải là một “tặng vật” do giai cấp thống trị ban phát thông qua nhà nước mà quyền con người trong hình thức lịch sử tự nhiên của nó mang bản chất tự nhiên, được thể hiện ở quyền được sống, quyền tự do, quyền được sáng tạo, phát triển, quyền được đối xử như con người, xứng đáng với con người. Xét về mặt xã hội, trong luận cương thứ VI về Phoi-ơ-Bắc, Các Mác cho rằng: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” [8, tr21]. Do đó, “quyền con người, ngay từ khi có xã hội loài người, bên 6
- cạnh bản tính tự nhiên còn in đậm bản tính xã hội” [8, tr.13]. Theo Mác: “Quyền con người là những đặc quyền chỉ có ở con người mới có, với tư cách là con người, là thành viên xã hội loài người [9, tr.14]. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lenin về quyền con người không phải chỉ là phép cộng đơn giản đối với hai quan niệm về quyền con người nêu trên, bản chất hai mặt tự nhiên và xã hội của quyền con người có những thuộc tính phức tạp và luôn có sự thống nhất giữa hai mặt đối lập. Như vậy, có thể hiểu quyền con người là một phạm trù tổng hợp, vừa là “chuẩn mực tuyệt đối” mang tính phổ biến, vừa là “sản phẩm tổng hợp của một quá trình lịch sử lâu dài luôn luôn tiến hóa và phát triển”. Quyền con người “không thể tách rời”, đồng thời cũng không hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội quyền con người là một tổng thể những quyền gắn bó với nhau trong mối quan hệ biện chứng, đó là quyền cá nhân và quyền của dân tộc cộng đồng, quyền chính trị - dân sự và kinh tế văn hóa xã hội, quyền của cá nhân đi đôi với nghĩa vụ đối với xã hội [25, tr13]. Trong khoa học pháp lý Việt Nam, khái niệm quyền con người cũng đã được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu khoa học: GS.TSKH Lê Văn Cảm trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, từ việc nghiên cứu bảo vệ quyền con người trong thực tiễn quốc tế cũng như ở Việt Nam đã đưa ra khái niệm đầy đủ và sâu sắc về quyền con người mà theo đó: “Quyền con người là một phạm trù lịch sử cụ thể, là giá trị cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại và là đặc trưng vốn có cần được tôn trọng và không thể bị tước đoạt của bất kỳ cá nhân con người nào sinh ra trên trái đất, đồng thời phải được bảo vệ bằng pháp luật bởi các quốc gia thành viên liên hợp quốc, cũng như bởi cộng đồng quốc tế”[13, tr.11]. GS.TS. Võ Khánh Vinh thì quyền con người gắn chặt với hoạt động xã hội, các mối quan hệ xã hội và các phương thức sống của cá nhân. Quyền con người là biểu hiện tiêu chí tác động qua lại, củng cố các mối liên hệ, phối hợp hành động và hoạt động giữa con người và con người, ngăn ngừa các mâu thuẫn đối đầu và xung 7
- đột giữa họ trên cơ sở kết hợp tự do cá nhân với tự do của những người khác, với hoạt động bình thường của nhà nước và xã hội. Những quyền như quyền được sống, quyền được tôn trọng danh dự, nhân phẩm, được bất khả xâm phạm về thân thể, được tự do ngôn luận, tự do chính kiến, tự do tín ngưỡng, được tham gia vào các quá trình chính trị là những điều kiện cần thiết để con người tổ chức đời sống trong xã hội văn minh và cần phải được nhà nước thừa nhận và bảo vệ một cách vô điều kiện [57, tr.13]. PGS.TS Nguyễn Văn Động đưa ra nhận xét chung về quyền con người đó là: a) Là những giá trị quý báu được thừa nhận chung bởi toàn thế giới đồng thời gắn bó chặt chẽ với sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và cả cộng đồng quốc tế; b)Trực tiếp liên quan đến các lĩnh vực sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người và góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển nhân cách, tính nhân đạo và nhân văn của con người; c) các quyền con người tạo thành hệ thống thống nhất, quan hệ tác động lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau [21, tr. 52-53]. Kế thừa những quan điểm khoa học nói trên, theo chúng tôi, khái niệm quyền con người được hiểu: Quyền con người là quyền gắn liền với hoạt động xã hội của mỗi cá nhân nó có từ khi sinh ra cho đến khi chết đi, là quyền bất khả xâm phạm đối với mỗi cá nhân con người là những đòi hỏi chính đáng về tự do và những nhu cầu cuộc sống cơ bản cần được đáp ứng của con người. Về tính chất, quyền con người không bị bó hẹp trong mối quan hệ giữa cá nhân với nhà nước mà thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại. Về phạm vi áp dụng, do không bị giới hạn bởi chế định quốc tịch, chủ thể của quyền con người là tất cả các thành viên của loài người, bất kể vị thế, hoàn cảnh, quốc tịch Nói cách khác, quyền con người được áp dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc đang sinh sống trên phạm vi toàn cầu, không phụ thuộc vào biên giới quốc gia, tư cách cá nhân hay môi trường sống của chủ thể quyền [16, tr.99]. 8
- Một cá nhân con người là người bị tạm giữ có quyền được tôn trọng và bảo vệ các quyền về con người không bị pháp luật hạn chế do bị tạm giữ như quyền bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và các quyền chính trị, dân sự khác. Riêng đối với người bị tạm giữ do bị nghi thực hiện tội phạm, do bị truy nã, bị bắt khẩn cấp trong những trường hợp này người bị tạm giữ rất dễ bị xâm phạm các quyền tự do dân chủ như quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, quyền bảo vệ lợi ích chính đáng như quyền được bảo vệ bí mật đời tư, quyền được bình đẳng trước pháp luật, quyền khiếu nại, tố cáo chính vì vậy quyền con người được xem là quyền bất khả xâm phạm đối với mỗi cá nhân con người là những đòi hỏi chính đáng, cần thiết được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Với việc đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chính sách, coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của công cuộc phát triển, đường lối đổi mới không chỉ tác động đến kinh tế, xã hội mà đồng thời chi phối mạnh mẽ nhận thức và thực tế bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay. Khái niệm bảo đảm quyền con người được hiểu là việc bảo đảm tính hợp pháp và hợp lý tất cả những gì mà nhà nước quy định cho cá nhân về quyền con người. Việc bảo đảm quyền con người về cơ bản được bảo đảm thực hiện khi đáp ứng được các yếu tố: – Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật: Bình đẳng trong bầu cử, ứng cử, tự ứng cử; bình đẳng trong quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và nhiều dạng quan hệ dân sự khác, đặc biệt là bình đẳng trong hoạt động sản xuất – kinh doanh; bình đẳng trong lĩnh vực văn hóa – giáo dục, khoa học – công nghệ như quyền được học tập, quyền nghiên cứu, sáng tạo, chuyển giao, chuyển nhượng kết quả nghiên cứu – Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, cụ thể: ngăn ngừa những hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người (trong đó kể cả những bị can, bị cáo và những phạm nhân đang thi hành án phạt tù) 9
- – Bảo đảm một số quyền dân sự, chính trị khác: Quyền tự do ngôn luận, quyền tự do lập hội, hội họp, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo 1.1.2. Mối liên hệ giữa quyền con người với pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam Mặc dù quyền con người là một phạm trù đa diện, song quyền con người có mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật và được đảm bảo hơn khi có mối liên hệ mật thiết với pháp luật tố tụng hình sự. Điều này trước hết là bởi cho dù quyền con người có là bẩm sinh vốn có (nguồn gốc tự nhiên) hay phải do các nhà nước quy định (nguồn gốc pháp lý), thì việc thực hiện các quyền vẫn cần có pháp luật, mà thông qua đó, nghĩa vụ tôn trọng và thực thi các quyền trở thành những quy tắc cư xử chung, có hiệu lực bắt buộc và thống nhất cho tất cả mọi chủ thể trong xã hội, chứ không phải chỉ tồn tại dưới dạng những quy tắc đạo đức. Chính vì vậy, quyền con người gắn liền với các quan hệ pháp luật và là một phạm trù pháp lý. Thực tế cho thấy, với tư cách là chủ thể của pháp luật, con người – cùng với quyền, tự do và nghĩa vụ, những thuộc tính xã hội gắn liền với nó – luôn là đối tượng phản ánh của các hệ thống pháp luật. Pháp luật xác lập và bảo vệ sự bình đẳng hình thức giữa các cá nhân con người trong xã hội và sự độc lập tương đối của các cá nhân với tập thể, cộng đồng, nhà nước, thông qua việc pháp điển hóa các quyền và tự do tự nhiên, vốn có của cá nhân. Theo nghĩa này, pháp luật có vai trò đặc biệt, không thể thay thế trong việc ghi nhận, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người. Ở đây, vai trò của pháp luật với quyền con người thể hiện ở 02 khía cạnh chủ yếu: thứ nhất, pháp luật là phương tiện chính thức hóa, pháp lý hóa giá trị xã hội của các quyền tự nhiên và thứ hai, pháp luật là phương tiện bảo đảm giá trị thực tế của các quyền con người, là phương tiện hữu hiệu để bảo đảm các quyền con người [16, tr.53,54]. Vấn đề quyền con người, bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự được xuất phát trước hết từ mối quan hệ giữa quyền con người và những đảm bảo quyền con người trong nhà nước. Đây là mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng. Cái chung đó là quyền con người, bảo đảm quyền con người trong nhà nước và cái 10
- riêng đó là quyền con người và bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. Quyền con người, bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự có những đặc thù khác với những lĩnh vực hoạt động nhà nước khác. Những đặc thù này chính là sự phản ánh của các hoạt động tố tụng hình sự, là lĩnh vực hoạt động nhà nước đặc biệt ở bất lỳ quốc gia nào trên thế giới. Để có thể phát hiện ra tội phạm, ngăn chặn các hành vi tội phạm, tiến hành các hoạt động tố tụng thì việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự là sự cần thiết khách quan, có tính phổ biến và hậu quả của nó là hạn chế một cách trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân do Hiến pháp quy định. Hoạt động tố tụng hình sự rất cần đến sự tham gia của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân nhưng đồng thời nó cũng thể hiện tính độc lập, chủ động của những người tiến hành tố tụng, do đó khả năng xảy ra các oan sai là điều khó có thể tránh khỏi. Từ sự lạm dụng quyền hạn của các CQTHTT cũng làm hạn chế trái pháp luật đến quyền con người. BLTTHS quy định cho người bị tạm giữ quyền bào chữa nhưng nếu không có những quy định, biện pháp bảo đảm thực hiện quyền này có tính khả thi thì quyền chủ thể quan trọng này của bị can, bị cáo chỉ tồn tại trong bộ luật mà không được thực thi trong cuộc sống. Trong tố tụng hình sự, các biện pháp bảo đảm pháp lý của quyền chủ thể tham gia tố tụng bao gồm các nguyên tắc cơ bản của TTHS, các quy định về thủ tục, trình tự tố tụng, các giai đoạn của TTHS, hoạt động điều tra, kiểm sát tuân theo pháp luật, các trách nhiệm của CQTHTT. Bảo đảm tố tụng chính là những cách thức, điều kiện do luật định khi thực hiện hành vi tố tụng cụ thể nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể tham gia tố tụng, bảo đảm tính hợp pháp của các biện pháp cưỡng chế, chống lại sự tùy tiện, loại trừ những trường hợp oan sai [3, tr.40]. 1.1.3. Khái niệm người bị tạm giữ và việc bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã đưa ra khái niệm về người bị tạm giữ như sau: “Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ”. 11
- BLTTHS 2015 sửa đổi: “Người bị tạm giữ là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ”. Như vậy, người bị tạm giữ có thể là người chưa bị khởi tố về hình sự, đó là những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, trường hợp người phạm tội tự thú trước khi hành vi phạm tội bị phát hiện và khởi tố, và đối với họ đã có quyết định tạm giữ. Mặc dù họ chưa bị khởi tố về hình sự nhưng trên thực tế họ vẫn phải chịu sự cưỡng chế cuả cơ quan đã tạm giữ họ. Người bị tạm giữ bị hạn chế một số quyền nhất đinh, bị buộc phải khai báo hoặc trả lời các câu hỏi của cán bộ điều tra. Người bị tạm giữ cũng có thể là người đã bị khởi tố về hình sự bao gồm: bị can, bị cáo, người bị kết án nhưng bỏ trốn, người đang chấp hành án bỏ trốn nhưng bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội ra đầu thú và đã có quyết định tạm giữ đối với họ. Do đó, việc bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, trong đó có bảo đảm các quyền lợi về bảo vệ sức khỏe, thân thể, tính mạng, danh dự và ngăn chặn dịch bệnh với những nhóm đối tượng cụ thể khác vì người bị tạm giữ chưa bị kết tội theo bản án có hiệu lực của pháp luật do Tòa án tuyên, chỉ trong trường hợp thật cần thiết mới áp dụng biện pháp tạm giữ. Vì vậy cần phải tính toán cụ thể để bảo đảm được quyền con người trong việc thực hiện chế độ tạm giữ, bảo đảm sự độc lập tương đối giữa công tác điều tra với quản lý tạm giữ, khắc phục và hạn chế vi phạm đặc biệt là dùng nhục hình. 1.2. Các quyền con người của người bị tạm giữ theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam 1.2.1. Các quyền chung về quyền con người của người bị tạm giữ Theo pháp luật TTHS Việt Nam hiện hành (BLTTHS 2003) người bị tạm giữ có những quyền con người sau đây: - Quyền được tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (Điều 4), quy định rõ các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng ”trong phạm vi 12
- trách nhiệm của mình cần phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa”. - Quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 5), BLTTHS quy định trong ”tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội; bất cứ người nào phạm tội đều bị xử lý theo pháp luật”. - Quyền bất khả xâm phạm về thân thể (Điều 6), đây là một quyền rất quan trọng được pháp luật ghi nhận ”Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà án, quyết định hoặc phê chuẩn của VKS, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải theo quy định của Bộ luật TTHS. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình”. - Quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản (Điều 7), ghi nhận ”công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật”. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm áp dụng những biện pháp cần thiết, kịp thời để bảo vệ người tham gia tố tụng và người thân thích của người bị tạm giữ khi bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản theo quy định của pháp luật. - Quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín (Điều 8), theo đó ”không ai được xâm phạm chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân. Việc khám xét chỗ ở, khám xét, tạm giữ và thu giữ thư tín, điện tín phải theo đúng quy định của Bộ luật TTHS”. - Quyền được suy đoán vô tội (Điều 9), điểm mới trong quy định của BLTTHS 2003 ghi nhận ”không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”. Khi chưa có bản án kết tội 13
- của Tòa án thì người bị nghi thực hiện tội phạm vẫn được bảo đảm các quyền về con người. - Quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự quyền lợi khi bị oan, sai (Điều 29, 30), theo đó khi bị thiệt hại, bị oan do cơ quan hoặc người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi. ”Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan; người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật”. Ngoài ra, BLTTHS năm 2015 còn qui định bổ sung các quyền mà người bị tạm giữ được hưởng gồm: - Quyền được tôn trọng và bảo vệ quyền con người và lợi ích hợp pháp (Điều 8) ”Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết”. - Quyền được Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình (Điều 12), theo đó không ai được xâm phạm trái pháp luật chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân. Việc khám xét chỗ ở; khám xét, tạm giữ và thu giữ thư tín, điện thoại, điện tín, dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác phải được thực hiện theo quy định của BLTTHS. - Quyền không bị kết án hai lần vì một tội phạm (Điều 14), theo đó không được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người mà hành vi của họ đã có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, trừ trường hợp họ thực hiện hành vi nguy hiểm khác cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm. 14
- - Bên cạnh đó BLTTHS 2015 còn quy định về quyền im lặng, chi tiết cụ thể tại các Điều 58 khoản 1 điểm e, Điều 59 khoản 2 điểm c, Điều 60 khoản 1 điểm d, Điều 61 khoản 2 điểm h. Theo đó, các điều khoản này lần lượt ghi nhận: người bị bắt giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tạm giữ, bị can và bị cáo đều có quyền trình bày ý kiến, trình bày lời khai, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Như vậy, có thể hiểu người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự chủ về việc khai báo. Những gì bất lợi, họ có thể không buộc phải khai báo cũng như không buộc phải nhận mình có tội trước cơ quan tiến hành tố tụng hình sự. Trong các điều khoản trên, tuy không trực tiếp ghi nhận quyền im lặng cho người bị bắt khẩn cấp, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, nhưng trong thực tế khi làm việc với các cơ quan tố tụng, họ có thể không trả lời một số câu hỏi mà họ cho là chống lại họ và họ cũng không buộc phải khai nhận mình có tội. Đây có thể được coi là một nội dung của quyền im lặng, quy định này nhằm bảo đảm tính minh bạch của pháp luật, tạo sự nhận thức thống nhất trong quá trình lấy lời khai và hỏi cung. Trên thực tế cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng luôn mong đợi sự hợp tác của người bị buộc tội, nhưng nếu không nhận được sự hợp tác tích cực của người bị buộc tội thì cũng không thể coi đó là tình tiết tăng nặng được. Bộ luật Hình sự hiện hành cũng không coi người bị buộc tội không trả lời cơ quan, người tiến hành tố tụng những vấn đề bất lợi cho bản thân, không buộc phải nhận tội hay “ngoan cố, không khai báo thành khẩn” là tình tiết tăng nặng. Tuy nhiên, quyền im lặng không loại trừ quyền khai báo của người bị buộc tội. Người bị tạm giữ, tạm giam, bị can, bị cáo có quyền khai báo sau khi được giải thích về quyền im lặng. Việc nhận tội của bị can, bị cáo luôn được xem là tình tiết giảm nhẹ trong quyết định hình phạt đối với bị cáo. Quyền im lặng có mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết với quyền bào chữa, bổ sung cho nhau để bảo đảm cho tố tụng hình sự được tiến hành đúng đắn, khách quan, tránh làm oan người vô tội. Quyền nhờ người khác bào chữa là một phần cụ thể của quyền im lặng và quyền im lặng là bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị 15