Luận văn Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự từ thực tiễn xét xử Thành phố Hồ Chí Minh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự từ thực tiễn xét xử Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_bao_dam_nguyen_tac_tranh_tung_trong_xet_xu_cac_vu_a.pdf
Nội dung text: Luận văn Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự từ thực tiễn xét xử Thành phố Hồ Chí Minh
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ BÍCH THỦY BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ BÍCH THỦY BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành : Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS VÕ KHÁNH VINH HÀ NỘI - 2017
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 11 1.1. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự 11 1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự 13 1.3. Các vấn đề về bảo đảm của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự 17 Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ ĐẢM BẢO NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 31 2.1. Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự 31 2.2. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh 37 2.3. Đánh giá thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh 39 Chương 3: HOÀN THIỆN CÁC BẢO ĐẢM CỦA NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 52 3.1. Hoàn thiện các bảo đảm của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự 52 3.2. Nâng cao năng lực cán bộ 59 3.3. Các bảo đảm khác 65 KẾT LUẬN 74 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
- DANH MỤC CÁC CHŨ VIẾT TẮT BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự HĐXXX: Hội đồng xét xử KSV: Kiểm sát viên TAND: Tòa án nhân dân TTHS: Tố tụng hình sự VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
- MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Thực hiện chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, vấn đề bảo đảm quyền con người và quyền công dân, đặc biệt là trong hoạt động tư pháp luôn được chú trọng. Tuy nhiên tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật ở nước ta xảy ra nghiêm trọng, diễn biến phức tạp và ngày càng có chiều hướng gia tăng. Cùng với sự nỗ lực của toàn xã hội, các cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều cố gắng trong công tác tư pháp nên đã góp phần quan trọng trong đấu tranh phòng chống tội phạm, vi phạm pháp luật, giữ vững an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, chất lượng công tác tư pháp còn chưa ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, còn bộc lộ nhiều yếu kém, nhiều nơi còn bỏ lọt tội phạm, xảy ra oan sai, xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và của công dân, tạo nên dư luận xã hội không tốt, làm giảm lòng tin vào nền công lý xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ những lý do nêu trên, Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật ở Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã nhấn mạnh: Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, bảo đảm cho sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp. Nghị quyết 08/NQ-TW của Bộ Chính trị có hiệu lực từ ngày 02/01/2002 được xem như sự mở đầu cho công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta. 1
- Nghị quyết này đề cập nhiều nội dung khác nhau của công tác tư pháp từ hoạt động điều tra, truy tố xét xử cho đến việc đào tạo cán bộ Tư pháp, quy chế bổ nhiệm, miễn nhiệm, tăng cường yếu tố tranh tụng trong quá trình xét xử vụ án hình sự được coi là điểm nhấn của cải cách tư pháp và là vấn đề trọng tâm của Nghị quyết (nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, Người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác). Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng định: “Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp; từng bước xã hội hoá một số hoạt động tư pháp, “Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra”, “Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư”. Những tư tưởng quan điểm trên một mặt xác định tranh tụng là một trong những nội dung quan trọng của cải cách tư pháp, đồng thời cũng được coi là định hướng và yêu cầu thúc đẩy việc nghiên cứu vấn đề bảo đảm tranh tụng trong hoạt động của Toà án. Tinh thần nghị quyết đề cập chất lượng tranh tụng là nói đến mô hình tố tụng của Việt Nam. Mô hình tố tụng dân sự Việt Nam thể hiện rõ nét là tố tụng tranh tụng vì các bên trong vụ án dân sự có tranh chấp, xung đột pháp lý, vị trí, vai trò hai bên tranh tụng có khả năng và quyền như nhau trong tất cả các giai đoạn tố tụng, thì mô hình tố tụng hình sự Việt Nam là mô hình tố tụng pha trộn trên cơ sở mô hình tố tụng thẩm vấn và tố tụng tranh tụng ở giai đoạn. Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 thể hiện mô hình tranh tụng tại phiên tòa hình sự là rõ nét nhất. 2
- Việc phán quyết của Toà án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, nhằm xác định sự thật vụ án, bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Khoản 5 Điều 103 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi năm 2013) khẳng định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Mặc dù nguyên tắc tranh tụng trong Tố tụng hình sự đã được ghi nhận và từng bước được quy định trong Hiến pháp, luật pháp và đưa vào thực hiện, nhưng quyền lợi của người phạm tội, người bị hại và những người tham gia tố tụng khác vẫn còn những dấu hiệu bị vi phạm. Vị trí, vai trò và chức năng của họ chưa được đánh giá một cách đúng đắn dẫn đến không được bảo đảm đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp theo Hiến định và Luật định. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, tuy nhiên đáng chú ý hơn là việc các chủ thể tham gia tố tụng chưa nhận thức đầy đủ và chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong Tố tụng hình sự. Hiện nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống và toàn diện về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam. Tranh tụng tại phiên tòa, giữa một bên là người buộc tội và một bên là người gỡ tội. Trong giai đoạn xét xử thì Tòa án đóng vai trò là người phán quyết, nghiêm túc quan sát tuân thủ tranh tụng của hai bên, điều khiển phiên tòa, sự giám sát hội đồng xét xử thì ba chức năng buộc tội - bào chữa - xét xử đều được công khai. Thẩm phán đánh giá bằng niềm tin nội tâm dựa vào các tiêu chí đánh giá chứng cứ hợp lệ hay không để cùng hội đồng xét xử phán quyết. Tuy nhiên trên thực tế cũng có trường hợp thành viên hội đồng xét xử, cụ thể là thẩm phán có thói quen thực hiện lại việc thẩm định lại những chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra nên tích cực thẩm tra (xét hỏi) theo hướng chứng cứ có tại hồ sơ rất nhiều, làm lấn quyền công tố (buộc tội) của 3
- kiểm sát viên giữ quyền công tố, làm cho họ mờ nhạt, thụ động không thể thực hiện chức năng của mình trước hội đồng xét xử, dễ làm đảo lộn vị trí pháp lý của chủ thể tố tụng hoặc giảm bớt thời gian tranh tụng tại phần tranh luận của phiên tòa. Hội đồng xét xử vừa buộc tội, vừa là quyết định bị cáo có tội hay không và quyết định hình phạt nên sẽ khó bảo vệ lợi ích của cá nhân nên dễ dẫn đến oan sai, bỏ lọt người, lọt tội. Đây là những lý do để tôi chọn đề tài: “Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự từ thực tiễn xét xử tại Thành phố Hồ Chí Minh” để nghiên cứu nhằm hoàn thiện không về mặt lý luận mà đòi hỏi phải phù hợp thực tiễn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trước khi chọn đề tài này, bản thân đã nghiên cứu qua nhiều bài viết, công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu pháp lý đã được công bố. Sơ lược về các thành tựu nghiên cứu như: Luận án tiến sĩ “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và những vấn đề áp dụng tranh tụng” của tác giả Nguyễn Thị Thủy năm 2014. Các bài viết đăng trên Tạp chí khoa học pháp lý, tạp chí Viện kiểm sát, tạp chí Tòa án nhân dân: “ Cải cách tư pháp và các giải pháp phòng, chống oan, sai trong tố tụng hình sự” của tác giả TS. Trịnh Tiến Việt năm 2012; “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Thái Phúc năm 2007; “Phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Phạm Hồng Hải năm 2009; “Phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đức Mai năm 2009. Đề tài “Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự từ thực tiễn xét xử tại Thành phố Hồ Chí Minh” là một công trình nghiên cứu chuyên sâu với phương pháp so sánh, phân tích, đánh giá những khiếm khuyết trong quá trình áp dụng thực tiễn theo quy định của pháp luật hình sự 4
- Việt Nam. Từ việc nghiên cứu, tổng hợp giữa lý luận kết hợp với thực tiễn, tôi đề xuất và đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự về các vấn đề lý luận Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của công trình này nhằm làm rõ cơ sở lý luận, pháp lý và thực tiễn bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, làm rõ những yêu cầu cải cách tư pháp trong thời kỳ đổi mới, từ đó đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên toà xét xử án sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích của luận án, tác giả kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan và tiếp tục làm rõ một số vấn đề sau: - Phân tích khái niệm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; khái niệm công cụ để đi đến nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Từ khái niệm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng, tác giả tiếp tục nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng bao gồm: nội dung, yêu cầu, vai trò và ý nghĩa của việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. - Bên cạnh đó, luận văn cũng làm rõ hơn yêu cầu cải cách tư pháp và điều kiện bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự và những kinh nghiệm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng ở một số nước trên thế giới có giá trị tham khảo đối với Việt Nam. 5
- - Luận văn tập trung nghiên cứu, đánh giá khái quát pháp luật Việt Nam về việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. - Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam, từ đó rút ra những ưu điểm, hạn chế bất cập và nguyên nhân của thực trạng đó để từ đó đề xuất những quan điểm và giải pháp phù hợp. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về cải cách tư pháp, hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, nguyên tắc tranh tụng và bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Đề tài luận văn tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam. - Hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong phạm vi Thành phố Hồ Chí Minh bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. - Thời gian nghiên cứu giai đoạn từ 2003-2015 (từ khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đến nay). 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt 6
- Nam về nhà nước, pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền, về cải cách tư pháp, lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật tố tụng của một số nước trên thế giới và Việt Nam, thể hiện trong quá trình chỉ đạo đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và cải cách tư pháp nói riêng theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặt khác, đề tài tham khảo kinh nghiệm của một số nước trong thực hiện bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự để áp dụng vào hoàn cảnh thực tế của Việt Nam. Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp hệ thống, phương pháp logic, phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê, phân tích, phương pháp so sánh, tổng hợp để luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu ở trên. - Phương pháp hệ thống được sử dụng trong luận văn để phân loại và nghiên cứu nội dung các tài liệu, các văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam và một số nước trên thế giới. - Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu được sử dụng xuyên suốt quá trình thực hiện của luận văn, cơ sở lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự và những yêu cầu bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong điều kiện cải cách tư pháp, đánh giá thực trạng thực hiện bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, từ đó đưa ra quan điểm và giải pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. - Phương pháp lịch sử thống kê, so sánh được sử dụng trong đánh giá thực trạng thực hiện bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở Việt Nam. Tác giả đưa ra những nhận xét về tình hình việc bảo 7
- đảm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự dựa trên những nghiên cứu, phân tích điều kiện cụ thể của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, thực hiện cải cách tư pháp. - Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để phân tích khái niệm, nội dung, đặc điểm, vai trò và ý nghĩa của bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án; các yêu cầu, điều kiện bảo đảm nguyên tắc tranh tụng, thực trạng thực hiện bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự, phân tích những quan điểm và giải pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phép biện chứng của triết học Mác-xít vừa với tính cách là phương pháp luận, vừa với tính cách của một phương pháp nghiên cứu. Ngoài ra, Luận văn còn áp dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp quy nạp và diễn dịch; mô tả; so sánh; lịch sử; thống kê; hệ thống; nghiên cứu hồ sơ và các phương pháp chuyên biệt khác của Luật hình sự và tố tụng hình sự. Trong khi nghiên cứu về các mô hình tố tụng trên thế giới, tác giả chú trọng sử dụng phương pháp phân tích và so sánh nhằm tìm ra những kinh nghiệm về thực hiện bảo đảm nguyên tắc tranh tụng cho Việt Nam. Trong phần nghiên cứu thực trạng thực hiện bảo đảm nguyên tắc tranh tụng ở Việt Nam, tác giả còn sử dụng phương pháp tổng hợp nhằm thu thập, tổng hợp các số liệu để chứng mình cho các luận giải của mình. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Về nghiên cứu khoa học: là nguồn tài liệu tham khảo để các sinh viên, học viên hoặc các chuyên viên pháp lý có nhu cầu nghiên cứu. Luận văn góp phần bổ sung lý luận về cải cách tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử; bổ 8
- sung hoàn thiện lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Toà án nhân dân. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Về thực tiễn: luận văn đóng góp vào việc những hạn chế trong thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật. Qua đó, luận văn đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Thông qua thực tiễn hoàn thiện về lý luận khoa học. Bản thân tác giả là thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện, đã tham gia xét xử sơ thẩm nhiều vụ án hình sự. Từ các công trình khoa học và trải nghiệm của bản thân, những kiến nghị mà tác giả đưa ra vừa có ý nghĩa như một đề xuất mang tính khoa học, góp phần bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên toà xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay, góp phần vào việc thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm, trong đó nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên toà xét xử mà Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị coi là điểm nhấn của cải cách tư pháp. Trong quá trình hoàn thiện luận án này tác giả đã nghiên cứu các tài liệu liên quan đến luận văn, những bài viết của các tác giả đăng trên các Tạp chí, các Sách, Tạp chí Toà án nhân dân, Tạp chí VKS nhân dân, Nghị quyết 08/NQ-TW, Sách Chính trị quốc gia; Đề tài khoa học cấp Bộ; Thông tin khoa học xét xử; Tạp chí Dân chủ Pháp luật; Bình luận BLTTHS, các Báo cáo tổng kết hàng năm của Toà án nhân dân tối cao, Toà án nhân dân cấp tỉnh, huyện ở một số địa phương. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử trong các vụ án hình sự. 9
- Chương 2. Thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử trong các vụ án hình sự và thực tiễn thực hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chương 3. Hoàn thiện các bảo đảm của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử trong các vụ án hình sự. 10
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là những quy định pháp luật tố tụng hình sự có ý nghĩa chỉ đạo và thể hiện bản chất, mục đích tố tụng xác định được việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”được quy định tại khoản 5 điều 103 Hiến pháp năm 2013. Nguyên tắc này duy trì và phát huy những ưu điểm của mô hình tố tụng thẩm vấn, đồng thời tham khảo kinh nghiệm quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những hạt nhân hợp lý của mô hình tố tụng tranh tụng, phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta. Nguyên tắc này đòi hỏi hoạt động xét xử phải bảo đảm tranh tụng giữa Kiểm sát viên, bị hại, nguyên đơn dân sự với bị cáo, người bào chữa, bị đơn dân sự, giữa các đương sự với nhau và những người này có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu và tranh luận dân chủ trước tòa án. Bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra, đánh giá tại phiên tòa. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện theo quy định của Bộ luật để họ thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ trong việc tranh tụng. Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, các tình tiết tăng nặng, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điều khoản của Bộ luật hình sự để xác định tội danh, quyết định mức hình phạt, mức bồi thường thiệt hại và các tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ án hình sự; các chứng cứ xác định yêu cầu khởi kiện hoặc phản tố trong các vụ án dân sự, hành chính đều phải được đối đáp, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa. 11
- Nguyên tắc là tư tưởng có giá trị làm nền tảng cho những thiết chế và hoạt động. Nguyên tắc trong một quan hệ pháp luật tố tụng là những tư tưởng pháp lý làm nền tảng, làm cơ sở cho việc xây dựng và thực thi pháp luật trong lĩnh vực tố tụng đó. Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Có thể nói, đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, tranh tụng được ghi nhận là một nguyên tắc. Tuy nhiên việc cụ thể hoá nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật Tố tụng hình sự như thế nào? Phạm vi điều chỉnh ra sao? Nguyên tắc này có những nội dung gì? là những vấn đề đang được nghiên cứu, xây dựng của những nhà làm luật, của những cơ quan có thẩm quyền. Nhìn chung nguyên tắc tranh tụng có các nội dung cơ bản sau: - Hoạt động xét xử phải bảo đảm tranh tụng giữa Kiểm sát viên với những người tham gia tố tụng khác; tranh tụng là trọng tâm của hoạt động xét xử. - Các bên tranh tụng bình đẳng với nhau về quyền đưa ra tài liệu, chứng cứ, yêu cầu; đưa ra các luận điểm, luận cứ và luận chứng của mình; bình đẳng trong đối đáp, tranh luận, chứng minh, bác bỏ quan điểm lẫn nhau. - Kiểm sát viên và người tham gia tranh tụng phải tranh tụng với tinh thần trách nhiệm, trên cơ sở chứng cứ khách quan và quy định của pháp luật; với tinh thần tôn trọng lẫn nhau, có văn hoá ứng xử. - Bản án và quyết định của Toà án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét toàn diện các luận điểm, luận cứ và luận chứng của các bên tranh tụng. - Toà án có trách nhiệm bảo đảm các điều kiện, thực thi các quy định của pháp luật theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự để các bên tham gia tranh tụng. 12
- Như vậy, phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc tranh tụng chủ yếu là tại phiên toà xét xử vụ án hình sự, bắt đầu từ khi Toà án mở phiên toà cho đến khi kết thúc phiên toà và tập trung trong phần tranh luận của Kiểm sát viên với những người tham gia tố tụng. 1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự Theo Từ điển tiếng Việt, “tranh tụng” có nghĩa là kiện cáo lẫn nhau. Theo nghĩa Hán Việt thì thuật ngữ tranh tụng được ghép từ 2 từ “tranh luận” và “tố tụng”. Tranh tụng là tranh luận trong tố tụng. Trong tố tụng bao giờ cũng có sự tham gia của các bên có quyền và (hoặc) lợi ích trái ngược nhau yêu cầu Tòa án phân xử. Để có cơ sở cho Tòa án có thể phân xử, pháp luật quy định cho các bên tham gia tố tụng quyền khởi kiện vụ việc ra trước Tòa án, chứng minh và tranh luận để bảo vệ yêu cầu của mình. Như vậy, tranh tụng bao giờ cũng gắn liền với hoạt động tài phán của Tòa. Theo đó, tranh tụng là hoạt động của các bên tham gia xét xử đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận lại để bác bỏ một phần hoặc toàn bộ quan điểm của phía bên kia, là cơ sở để Tòa án đánh giá toàn bộ nội dung vụ án và đưa ra phán quyết cuối cùng đảm bảo tính khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Mô hình tố tụng hình sự tranh tụng thường được áp dụng tại các nước có truyền thống án lệ. Mô hình này có những đặc điểm cơ bản sau đây: - Có sự phân định rành mạch quyền và nghĩa vụ của các chủ thể thực hiện các chức năng cơ bản của Tố tụng hình sự. Toà án giữ vai trò trung lập, làm trọng tài điều khiển sự tranh tụng giữa các bên. - Vai trò của của Luật sư bào chữa được tham gia từ rất sớm trong Tố tụng hình sự. - Luật sư bào chữa có vai trò rất lớn trong việc thuyết phục Thẩm phán và Bồi thẩm đoàn đưa ra quyết định. 13
- - Bị cáo thường được khuyến khích nhận tội để có thể được miễn truy tố hoặc giảm nhẹ hình phạt. - Nguyên tắc phân quyền quy định Toà án là bộ phận độc lập tách rời khỏi hành pháp và tư pháp. Mô hình này có những ưu điểm là phân định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể thực hiện các chức năng cơ bản của Tố tụng hình sự; quyền của người bị buộc tội và của người bào chữa được mở rộng và triệt để được tôn trọng. Do vậy, nhiều người cho rằng mô hình tranh tụng có khả năng phòng chống oan, sai có hiệu quả. Tuy nhiên, vấn đề tranh tụng vẫn còn có nhiều quan điểm, nhận thức khác nhau. Đến nay, chúng ta chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định cụ thể vấn đề “tranh tụng”. “Tranh tụng” là nguyên tắc hay một thủ tục trong tố tụng cũng chưa được xác định rõ ràng. Thuật ngữ “tranh tụng” chỉ mới được đề cập trong các văn bản của Đảng và trong các tài liệu hội thảo nên hiện còn nhiều cách hiểu, nhận thức về “tranh tụng”, ngay cả Bộ luật tố tụng hình sự cũng chỉ có quy định về tranh luận là một giai đoạn của xét xử mà chưa có quy định thế nào là “tranh tụng”. Bản chất và mục đích yêu cầu của tranh tụng là quá trình xác định sự thật khách quan về vụ án, bảo đảm các phán quyết là đúng đắn và chính xác. Phiên tòa xét xử là cuộc điều tra công khai, thực hiện bằng lời nói gồm có phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, phần xét hỏi, phần tranh luận, nghị án và tuyên án. Tranh luận là giai đoạn các bên trình bày luận điểm của mình về những vấn đề đã được thẩm tra làm rõ ở giai đoạn trước, trên cơ sở đối chiếu với những quy định của pháp luật đề xuất hướng xử lý phù hợp. Kiểm sát viên trình bày quan điểm luận tội, tranh luận đối đáp về những vấn đề mà bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác đưa ra; và ngược lại bị cáo hoặc người bào chữa trình bày lời bào chữa, ý kiến phản bác đối với luận tội, đối 14
- đáp các ý kiến của kiểm sát viên và chủ thể khác có liên quan. Hội đồng xét xử là “ trọng tài ” điều hành việc tranh luận, đối đáp theo trình tự tố tụng nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Như vậy, quá trình tranh tụng được tiến hành thông qua hoạt động của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và Tòa án với ba chức năng tương ứng: buộc tội, bào chữa và xét xử. Tranh tụng là một dạng của mô hình tố tụng hình sự. Mục đích của tố tụng tranh tụng trong giai đoạn xét xử là bảo đảm sự tranh tụng công bằng. Mô hình tố tụng thẩm vấn được coi là dựa trên thuyết “sự thật” thì mô hình tố tụng tranh tụng được coi là dựa trên thuyết “đối kháng”. Chức năng trong mô hình tố tụng tranh tụng được chia là 3 chức năng rõ rệt: chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Tố tụng tranh tụng trong xét xử là cuộc đấu tranh tại Tòa án một bên là Nhà nước (thông qua đại diện) và một bên là công dân bị tình nghi thực hiện tội phạm, trong đó, hai bên đều sử dụng quyền và nghĩa vụ pháp lý như nhau trong việc thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ, phân tích và đưa ra kết luận với những vụ việc cụ thể. Sự thật vụ án được xác định trên cơ sở kết quả tranh tụng giữa hai bên buộc tội và gỡ tội. Thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử còn là cách thức nâng cao nhận thức, tạo ra môi trường dân chủ bình đẳng trong quan hệ tố tụng, buộc các chủ thể có thẩm quyền từ điều tra, truy tố, xét xử nâng cao năng lực, trình độ, hạn chế được chủ quan, duy ý chí trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần rất quan trọng để Tòa án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, hạn chế tình trạng oan sai. Đồng thời, đây cũng là cách thức mà nền tư pháp tham gia bảo vệ quyền con người, quyền công dân một cách hữu hiệu nhất. 15
- Áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là phù hợp với xu hướng quốc tế, bởi đa số các nước có nền dân chủ tiến bộ đều áp dụng nguyên tắc này với các mức độ và hình thức khác nhau. Kết quả tranh tụng tại phiên tòa đóng góp phần lớn cho việc ban hành bản án, quyết định của Tòa án. Nghiên cứu mô hình tố tụng tranh tụng có ý nghĩa to lớn về nhận thức. Kết quả của nó cho ta tri thức có tính hệ thống về mô hình. Nó giúp chúng ta thấy được vai trò của nó trong đời sống xã hội, mối quan hệ giữa mô hình này với mô hình tố tụng hình sự, nhà nước và pháp luật. Nghiên cứu nó cho ta thấy có ý nghĩa về phương pháp luận. Kết quả nghiên cứu của mô hình này là cơ sở khoa học cho việc xác định hướng giải quyêt những nội dung cụ thể của mô hình tố tụng này, so sánh với mô hình tố tụng thẩm vấn, mô hình tố tụng pha trộn, hướng bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án hình sự nhằm hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự và tìm ra các giải pháp bảo đảm hiệu quả của chúng trong thực tiễn. Từ những hướng nghiên cứu trên cho thấy để xác định sự thật khách quan của vụ án thì phiên tòa phải đảm bảo nguyên tắc tranh tụng, cần phải có những cơ chế, điều kiện nhất định để thực hiện: Thứ nhất, tham gia vào quá trình tranh tụng bao giờ cũng phải có ba chủ thể của quan hệ tranh tụng. Thứ hai, để việc tranh tụng đạt kết quả cao thì các bên buộc tội và gỡ tội phải có sự chuẩn bị kỹ càng, có trình độ năng lực cũng như đạo đức nghề nghiệp. Thứ ba, có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và các điều kiện về cơ sở vật chất đảm bảo. Như vậy, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử có thể khái niệm như sau: Tranh tụng là hoạt động của các bên tham gia xét xử đưa ra các quan điểm của mình và tranh luận để bác bỏ một phần hoặc toàn bộ quan điểm của 16
- phía bên kia. Đây là cơ sở để Tòa án đánh giá toàn bộ nội dung vụ án, đưa ra phán quyết cuối cùng, bảo đảm tính khách quan, đúng người, đúng tội, đúng tội, đúng pháp luật. Nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong Hiến pháp tạo sự chuyển biến mạnh mẽ cả về nhận thức lẫn thực tiễn trong công tác xét xử. Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành có nhiều quy định chứa đựng nội dung của nguyên tắc tranh tụng như quy định quy tắc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc xác định sự thật vụ án, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 đã quy định rõ ràng nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Đây là một bước tiến lớn và phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp của nhà nước ta. 1.3. Các vấn đề về bảo đảm của nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự Pháp luật TTHS Việt Nam hiện chưa ghi nhận các nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc cơ bản. Trên thực tế, để hoạt động tranh tụng được đảm bảo thực thi, BLTTHS 2003 ghi nhận một số nguyên tắc như: nguyên tắc: “Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật” (Điều 9); nguyên tắc: “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo” (Điều 11); nguyên tắc: “Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia” (Điều 15); “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (Điều 16); nguyên tắc: “Xét xử công khai” (Điều 18); nguyên tắc: “Bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án” (Điều 19) Về vấn đề chủ thể thực hiện việc tranh tụng: Chủ thể thực hiện việc tranh tụng tại Toà án chủ yếu được diễn ra giữa bên buộc tội và bên gỡ tội. Các chủ thể bên gỡ tội bao gồm bị can, bị cáo, người bào chữa. Tại Điều 50 BLTTHS quy định bị cáo có các quyền: được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; 17