Luận văn Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn Thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh

pdf 91 trang vuhoa 24/08/2022 15261
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn Thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_ap_dung_phap_luat_hinh_su_doi_voi_toi_mua_ban_trai.pdf

Nội dung text: Luận văn Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn Thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI   PHẠM HỒNG TÂM ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI   PHẠM HỒNG TÂM ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN VĂN HIỂN Hà Nội, năm 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu đã sử dụng trong luận văn là trung thực. Những kết luận nêu trong luận văn chưa có công bố ở bất kỳ công trình khoa học nào. TÁC GIẢ LUẬN VĂN PHẠM HỒNG TÂM
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội mua bán trái phép chất ma túy 8 1.2. Lý luận về áp dụng pháp luật hình sự đối với tội mua bán trái phép chất ma túy 16 Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH 32 2.1. Tình hình, đặc điểm có liên quan đến áp dụng pháp luật hình sự đối với Tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh 32 2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với Tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh 34 2.3. Nhận xét, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh 47 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH 55 3.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội mua bán trái phép chất ma túy 55 3.2. Một số giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh tây ninh 61 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
  5. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ADPL Áp dụng pháp luật BLHS Bộ luật hình sự BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT Cơ quan điều tra HĐXX Hội đồng xét xử MBTPCMT Mua bán trái phép chất ma túy TA Tòa án TAND Tòa án nhân dân VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân
  6. DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Tình hình xét xử các vụ án về ma túy so với số vụ án hình sự được xét xử trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh 35 giai đoạn 2016 - 2020 35 Bảng 2.2: Tình hình xét xử vụ án Mua bán trái phép chất ma túy so với các vụ án về ma túy được xét xử trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2016 - 2020 36 Bảng 2.3: Số vụ án Mua bán trái phép chất ma túy mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đưa ra xét xử trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh giai đoạn 2016 - 2020 39 Bảng 2.3: Số vụ án Mua bán trái phép chất ma túy bị kháng cáo, kháng nghị giai đoạn 2016 – 2020 trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh 40 Bảng 2.4: Kết quả xét xử phúc thẩm vụ án Mua bán trái phép chất ma túy giai đoạn 2016 – 2020 trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh 40 Bảng 2.5: Tổng hợp kết quả quyết định hình phạt về Tội Mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Tây Ninh giai đoạn 2016 – 2020 43
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, tình hình tệ nạn ma túy và tội phạm về ma túy trên thế giới vẫn diễn biến hết sức phức tạp. Mặc dù các quốc gia đã có nhiều nỗ lực trong phòng, chống và kiểm soát ma túy nhưng vẫn chưa thể đẩy lùi được tệ nạn ma túy và điều này làm cho tình hình tội phạm về ma túy vẫn có xu hướng tăng cao, trong đó các vụ có tính xuyên quốc gia ngày càng nhiều, sự liên kết giữa các tổ chức, các băng nhóm tội phạm quốc tế ngày càng chặt chẽ hơn. Đặc biệt, Việt Nam là quốc gia nằm sát với các khu vực sản xuất ma túy lớn của châu Á là “Tam giác vàng” và “Trăng lưỡi liềm vàng”, thuận lợi cho các đối tượng hoạt động phạm tội về ma túy. Thực tế những năm qua tình hình tội phạm về ma túy ở nước ta vẫn diễn biến hết sức phức tạp, không những gia tăng về số vụ phạm tội, số người phạm tội mà tính chất, mức độ nguy hiểm cũng ngày càng tăng; phương thức, thủ đoạn phạm tội ngày càng tinh vi, số lượng ma túy liên quan đến hành vi phạm tội ngày càng lớn, cách thức chống trả người thi hành công vụ ngày càng quyết liệt, nguy hiểm. . . Tội phạm về ma túy có thể coi“là tội phạm của các tội phạm”, đặc biệt là tội MBTPCMT - là một trong những loại tội phạm gây ảnh hưởng đặc biệt đến mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội trong giai đoạn hiện nay. Tây Ninh là tỉnh nằm ở miền Đông Nam bộ, là cửa ngõ giao lưu quốc tế quan trọng giữa Việt Nam với Campuchia, Thái Lan, đồng thời là đầu mối giao lưu trao đổi hàng hoá giữa các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Phía Bắc và Tây Bắc giáp 2 tỉnh Svay Riêng và Kampong Cham của Campuchia, với một Cửa khẩu Quốc tế Mộc Bài, hai cửa khẩu quốc gia (Sa Mát, Phước Tân) và nhiều cửa khẩu tiểu ngạch. Trong những năm qua, tình hình tội phạm về ma túy ở thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh có diễn biến phức tạp, giai đoạn từ 2016 đến 2020 số vụ án và bị can phạm tội về ma túy được TAND thành phố Tây Ninh, 1
  8. tỉnh Tây Ninh thụ lý và xét xử sơ thẩm là 916 vụ, tuyên 879 bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, được xã hội đồng tình, đánh giá cao, trong đó số vụ MBTPCMT chiếm chủ yếu với trên 90% (xem Bảng 2. 1, 2. 2 – Phụ lục). Trước thực trạng đó, hệ thống các cơ quan tư pháp của tỉnh Tây Ninh nói chung, thành phố Tây Ninh nói riêng đã triển khai nhiều phương án nhằm đấu tranh kiên quyết với tội phạm về ma túy, tội MBTPCMT trong đó đã chú trọng đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả ADPL hình sự đối với các tội phạm về ma túy nói chung, tội MBTPCMT nói riêng trong việc định tội danh, quyết định hình phạt. . . Việc tổ chức các phiên tòa công khai, xét xử lưu động đối với tội phạm về ma túy, tội MBTPCMT có tác dụng răn đe, trừng trị nghiêm khắc, đồng thời góp phần giáo dục, phổ biến pháp luật, tuyên truyền và nâng cao ý thức pháp luật cho quần chúng nhân dân, từ đó phát huy mạnh mẽ khối đoàn kết nhân dân và các cơ quan bảo vệ pháp luật trong cuộc chiến đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy nói chung, tội MBTPCMT nói riêng trên địa bànthàn h phố Tây Ninh cũng như toàn tỉnh Tây Ninh. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được hoạt động ADPL hình sự trong đó có các nội dung cơ bản như định tội danh, quyết định hình phạt đối với tội MBTPCMT vẫn còn những mặt hạn chế, thiếu sót, vẫn còn một số trường hợp áp dụng không đúng, chưa xem xét đầy đủ tính chất, mức độ phạm tội nên dẫn đến việc định tội danh thiếu chính xác, việc hủy án, sửa án vẫn còn tồn tại ở tội MBTPCMT. Những hạn chế này làm cho hiệu quả trấn áp đối với tội phạm về ma túy nói chung, tội MBTPCMT nói riêng chưa được như mong đợi. Bởi vậy, tăng cường hiệu quả hoạt động ADPL hình sự trong đó có định tội danh, quyết định hình phạt đối với MBTPCMT để bảo đảm đấu tranh mạnh mẽ, trấn áp kịp thời đối với tội phạm về ma túy trên địa bàn Thành phố Tây Ninh nói riêng, trên toàn tỉnh Tây Ninh nói chung là yêu cầu quan trọng, cấp thiết trong bối cảnh hiện nay. 2
  9. Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, học viên thấy rằng, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn ADPL hình sự đối với tội MBTPCMT trong giai đoạn hiện nay nhằm bổ sung, hoàn thiện lý luận, đề xuất các giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động ADPL hình sự đối với tội MBTPCMT là vấn đề có tính cấp thiết, đáp ứng nhu cầu thực tiễn hiện nay. Do đó, học viên chọn vấn đề “ADPL hình sự đối với tội MBTPCMT từ thực tiễn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp thạc sĩ, chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự là đáp ứng yêu cầu cấp thiết hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Ở nước ta hiện nay, vấn đề ADPL và ADPL hình sự luôn là đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học pháp lý và đã có những bài viết có giá trị. Những bài viết đó góp phần làm sáng tỏ mối liên hệ giữa lý luận khoa học pháp lý với thực tiễn, vì vậy trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần quan trọng trong việc bảo đảm ADPL hình sự đối với các tội phạm về ma túy nói chung, tội MBTPCMT nói riêng. Liên quan tới ADPL hình sự nói chung, ADPL hình sựđối với tội MBTPCMT nói riêng có thể kể đến một số công trình tiêu biểu: - GS. TS. Võ Khánh Vinh, Lý luận chung về định tội danh (2013), sách tham khảo, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. - Chu Thị Trang Vân (2009), Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quanđiều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Việt Nam, Luận án tiến sĩ. - Trần Văn Kiểm (2010), Áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử án hình sự của Tòa án nhân dân ở tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ. - Bùi Quý Long năm (2015), Áp dụng pháp luật trong xétử x các vụ án hình sự về ma túy của Tòa án nhân dân cấp huyện, tỉnh Hải Dương, Luận văn thạc sĩ. - Nguyễn Đức Ngọc (2020), Tội MBTPCMT theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk, Luận văn thạc sĩ. - Nguyễn Quang Duyệt ((2018), Áp dụng pháp luật hình sự về các tội phạm về ma túy từ thực tiễn trên địa bàn Quận 8 Thành Phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Học viện khoa học xã hội; 3
  10. - Vũ Thị Mai Trang (2021), Tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Hải Dương của, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH; - Kim Sa Pha (2020), Tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng,Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH; - Nguyễn Hồng Tâm (2020), Tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH; - Nguyễn Thị Liên ( 2020), Định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh , Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH; - Đặng Duy Tùng (2019), Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, Luận văn thạc sĩ, Học viện KHXH; - Mã Văn Hùng (2018) , Việc định tội danh đối với hành vi tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy , Tạp chí Kiểm sát, số 15/2018 - tr.47-49. - Chu Tấn Hải ( 2019), Một số kiến nghị hoàn thiện quy định về tội mua bán trái phép chất ma túy, Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 22/ 2019, tr. 34 – 39 Những công trình nghiên nêu trên đã đề cập đến việcADPL hình sự nói chung hoặc ADPL hình sự đối ở một số địa phương nhất định. Trong đó có một vài công trình có liên quan gần đến đề tài luận văn. Các kết quả nghiên cứu của các công trình này là những tri thức rất cần thiết mà luận văn này sẽ kế thừa một cách chọn lọc trong quá trình nghiên cứu đề tài. Tuy nhiên, đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu về việc ADPL hình sự đối với hình sự đối với tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3. 1. Mục đích nghiên cứu Thông qua việc làm sáng tỏ các vấn đề lý luận ADPL đối với tội MBTPCMT và thực tiễn áp dụng tại thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự trong định tội danh, quyết định hình phạt với tội MBTPCMT tại thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh trong thời gian tới. 4
  11. 3. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện các nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu tài liệu, hệ thống hóa và thống nhất nhận thức về tội MBTPCMT và lý luận về ADPL hình sựđối với tội MBTPCMT. - Khảo sát thực tế, nghiên cứu, phân tích làm rõ thực trạng ADPL hình sự đối với tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh, đó tập trung làm rõ nội dung định tội danh và quyết định hình phạt. Trên cơ sở đó làm rõ những kết quả đạt được, những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân. - Xác định những yêu cầu bảo đảm cho việc ADPL hình sự đối với tội MBTPCMT và đề xuất các giải pháp nhằm nhằm bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự trong định tội danh, quyết định hình phạt đối tội MBTPCMT tại thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4. 1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực tiễn ADPL hình sự đối với tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. 4. 2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận văn nghiên cứu thực tiễn ADPL thực tiễn ADPL hình sự đối với tội MBTPCMT trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. Trong đó chủ yếu tập trung nghiên cứu làm rõ nội dung định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội MBTPCMT. - Về chủ thể: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thuộc thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. - Về không gian: Thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. - Về thời gian: Từ năm 2016 đến năm 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5. 1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các chủ trương, đường lối, chính 5
  12. sách của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp; cơ sở lý luận của khoa học luật Hình sự và Tố tụng hình sự Việt. Nam 5. 2 Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây: - Phương pháp phân tích tài liệu; - Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp và so sánh số liệu thống kê; - Phương pháp tổng kết thực tiễn; 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu 6.1.Ý nghĩa khoa học Luận văn hệ thống hóa, làm rõ một số vấn đề lý luận về ADPL hình sự đối với tội MBTPCMT, đặc biệt là vấn đề định tội danh và quyết định hình phạt. 6.1.Ý nghĩa thực tiễn - Là tài liệu tham khảo cho các nhà lập pháp nghiên cứu, xem xét, sửa đổi, bổ sung những quy định của pháp luật có liên quan đến ADPL hình sự đối với tội MBTPCMT. - Là tài liệu cho cán bộ trong các cơ quan tiến hành tố tụng tại thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh, đặc biệt là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tham khảo, vận dụng trong công tác của mình để bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội MBTPCMT, đặc biệt là vấn đề định tội danh và quyết định hình phát. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu phục vụ học tập và nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học luật Hình sự và Tố tụng hình sự cho những ai quan tâm đến vấn đề này. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được kết cấu thành 03 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Tội mua bán trái phép chất ma túy và áp dụng pháp luật hình sự đối với Tội mua bán trái phép chất ma túy 6
  13. Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với Tội mua bán trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật hình sự đối với Tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh 7
  14. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY 1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội mua bán trái phép chất ma túy 1.1.1. Khái niệm tội mua bán trái phép chất ma túy Theo Từ điển bách khoa Công an nhân dân thì “ma túy” được hiểu là hợp chất khi đưa vào cơ thể sống có tác dụng làm thay đổi một hay nhiều chức năng của cơ thể [45, tr. 28]. Theo luật phòng chống ma túy năm 2000 thì “chất ma túy” được hiểu là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành. Hiện nay, khái niệm “chất ma túy” không được quy định trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017 – Sau đây thống nhất gọi là BLHS năm 2015) và các chất ma túy cụ thể được quy định trong các tình tiết định khung tăng nặng của các điều luật trong Chương XX “Các tội phạm về ma túy”. Ma túy bao gồm: Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao coca, hêrôin, côcain, lá, hoa, quả cây cần sa, lá cây côca, quả thuốc phiện khô, các chất ma túy khác ở thể rắn, các chất ma túy khác ở thể lỏng. Trong đó, các chất ma túy khác là những chất ma túy không được nêu trong BLHS nhưng nằm trong các danh mục được quy định tại Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Trong khoa học pháp lý hình sự, có một số tác giả đưa ra khái niệm về tội MBTPCMT như sau: Tác giả Trần Văn Luyện cho rằng “Tội mua bán trái phép chất ma túy là hành vi mua bán, trao đổi trái phép chất ma túy” [25, tr. 509]. 8
  15. Qua các ý kiến nêu trên, chúng ta nhận thấy đặc trưng của hành vi mua bán chất ma túy là hành vi bán hoặc nhằm bán trái phép chất ma túy cho người khác dưới bất kỳ hình thức nào. Nội hàm đầy đủ về hành vi MBTPCMT sẽ được làm rõ hơn hơn phần nghiên cứu dấu hiệu pháp lý của tội MBTPCMT. Dựa trên khái niệm “tội phạm” được quy định tại Điều 8 BLHS năm 2015 và đặc trưng của hành vi MBTPCMT, có thể đưa ra khái niệm về tội MBTPCMT như sau: “Tội mua bán trái phép chất ma túy là hành vi mua bán, trao đổi trái phép chất ma túy cho người khác dưới bất kỳ hình thức nào, do người có năng lực trách nhiệmh ình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma túy mà theo quy định của BLHS phải xử lý hình sự”. Là một loại tội phạm cụ thể, tội MBTPCMT có các dấu hiệu chung của tội phạm: Thứ nhất, về tính nguy hiểm cho xã hội: Hành vi nào đó sở dĩ bị quy định trong Luật hình sự là tội phạm và phải chịu TNHS vì nó có tính nguy hiểm cho xã hội [38, tr. 44]. Cho nên, tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất, quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Xét về mặt khách quan, hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho những quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ. Hành vi MBTPCMT đã xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy, đây là những quan hệ xã hội được Luật Hình sự bảo vệ. Vì vậy, MBTPCMT là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Thứ hai, về tính có lỗi của tội MBTPCMT, đó là thái độ tâm lý đối với hành vi phạm tội MBTPCMT do người có năng lực TNHS thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó, được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý [41, tr. 65-66]. 9
  16. Thứ ba, về tính trái pháp luật hình sự của tội này được hiểu là tội MBTPCMT phải được quy định trong BLHS, đây là biểu hiện của nguyên tắc pháp chế thể hiện tại Điều 2 BLHS “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”, tính trái pháp luật hình sự chính là hình thức pháp lý của tính nguy hiểm cho xã hội của tội MBTPCMT, giữa hai đặc tính này có mối quan hệ chặt chẽ, gắn liền với nhau, thể hiện thông qua việc đe dọa áp dụng chế tài hình sự đối với người thực hiện hành vi MBTPCMT với mức nguy hiểm đáng kể cho xã hội thì hành vi đó là trái pháp luật hình sự và người thực hiện hành vi phải chịu TNHS41 [ , tr. 66- 68]. Thứ tư, về tính chịu hành phạt của tội này được hiểu là hành vi MBTPCMT gây nguy hiểm đáng kể cho xã hội khi đủ yếu tố cầu thành tội phạm được BLHS quy định là tội phạm, thì có khả năng bị áp dụng hình phạt, thể hiện sự đe dọa áp dụng việc trừng phạt bằng các chế tài hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội MBTPCMT. Hình phạt đối với hành vi MBTPCMT là hình thức thể hiện bản chất nguy hiểm của tội MBTPCMT, thể hiện tính cưỡng chế nghiêm khắc nhất nhằm răn đe và phòng ngừa đối với loại hành vi nguy hiểm đáng kể này [41, tr. 65-66]. Như vậy, tội MBTPCMT mang đầy đủ các dấu hiệu chung của tội phạm, đây là tiền đề quan trọng để luận văn phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội này. 1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội mua bán trái phép chất ma túy - Khách thể của tội MBTPCMT. Khách thể của tội phạm là yếu tố không thể tách rời của tội phạm, tội phạm bao giờ cũng xâm hại đến một hoặc một số quan hệ xã hội được Nhà nước xác định bảo vệ bằng luật hình sự. Tội MBTPCMT tại Điều 251 BLHS 2015 có khách thể trực tiếp là chế độ độc quyền và thống nhất quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy. 10
  17. Việc Nhà nước độc quyền và thống nhất quản lý các chất ma túy là dễ hiểu bởi các tác hại, độ nguy hiểm của nó cho xã hội là rất lớn. Nếu sử dụng chất ma túy vào mục đích tốt như: khoa học, công nghiệp, y tế. . . thì nó lại trở thành hữu ích, có lợi cho con người. Ngược lại, nếu sử dụng các chất ma túy vào mục đích xấu, như: nhằm thỏa mãn cơn nghiện, những vui thú sa đọa. . . thì nó lại trở thành vật nguy hại cho xã hội, là nguồn gốc của nhiều loại tội phạm, thậm chí nó còn hủy hoại cả nhiều thế hệ con người, hủy hoại tương lai của đất nước. Chỉ những cá nhân, cơ quan có thẩm quyền thực hiện đúng chức năng, nhiệm, vụ, quyền hạn của mình thực hiện các hoạt động liên quan đến ma túy. Ngoài những chủ thể được phép thì những chủ thể khác thực hiện hành vi hoạt động liên quan đến chất ma túy đều là vi phạm pháp luật. Chính vì vậy, để kiểm soát được các chất ma túy này, không một chủ thể nào có điều kiện, có phương tiện, có nhân lực hơn Nhà nước, bởi Nhà nước là chủ thể duy nhất có đầy đủ hệ thống các cơ quan quản lý toàn diện từ cấp cơ sở đến cấp trung ương và quản lý mọi mặt trong lĩnh vực đời sống xã hội. “Đối tượng tác động của tội phạm này là các chất ma túy và các nguyên liệu thực vật có chứa chất ma tuý” [46; tr18]. Các chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong các danh mục chất ma túy do Chính phủ ban hành. Còn các loại tiền chất ma túy thì không phải là đối tượng của tội MBTPCMT, nó chỉ là đối tượng của tội Tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy, quy định tại Điều 253 BLHS 2015. Do đó, cần lưu ý và phân biệt rõ về đối tượng tác động của tội phạm trong trường hợp này. - Mặt khách quan của tội phạm MBTPCMT. Mặt khách quan là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, các dấu hiệu biểu hiện sự thực hiện hành vi phạm tội và gắn liền với hành vi như: công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ 11
  18. đoạn phạm tội, thời gian, địa điểm và hoàn cảnh phạm tội. MBTPCMT là hành vi trao đổi trái phép chất ma túy dưới bất kì hình thức nào như mua để bán lại, vận chuyển ma túy để bán cho người khác, tàng trữ ma túy để bán dần, dùng ma túy để đổi lấy hàng hóa hoặc dùng hàng hóa để đổi lấy ma túy, xin chất ma túy rồi mang bán lại cho người khác. Căn cứ vào hướng dẫn tại tiểu mục 3. 3, Mục 3 phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP xác định hành vi khách quan của tội Mua bán trái phép chất ma tuý có 3 nhóm hành vi chính, đó là: Nhóm hành vi “Bán” trái phép chất ma tuý (gồm các điểm a, b, c, e, g mục 3. 3, phần II, Thông tư 17): Hành vi này có thể là mua, xin, trộm cắp, cướp giật, chiếm đoạt, nhặt được nhưng đều nhằm mục đích để bán. Tóm lại, không cần xét đến nguồn gốc ma tuý do đâu mà có, chỉ cần có hành vi bán trái phép chất ma tuý cho người khác là đã cấu thành tội này. Kể cả hành vi bán hộ ma tuý thì cũng thuộc nhóm hành vi “bán” trái phép chất ma tuý. Nhóm hành vi “Trao đổi” trái phép chất ma tuý (gồm các điểm d, đ mục 3. 3): Việc trao đổi chất ma tuý này có thể là đổi ma tuý để lấy tài sản của người nhận ma tuý (việc trao đổi có thể ngang giá hoặc không ngang giá), hoặc có thể là dùng ma tuý để thanh toán khoản nợ, trừ nợ. Trường hợp này cũng không cần xét đến nguồn gốc ma tuý. Nhóm hành vi “Hỗ trợ” việc bán, trao đổi trái phép chất ma tuý (phần cuối mục 3. 3): Đây là các hành vi tổ chức, xúi giục, giúp sức cho hành vi bán, trao đổi chất ma tuý - gọi chung là trường hợp đồng phạm với hành vi bán, trao đổi ma tuý. Điểm cần lưu ý trong dấu hiệu khách quan của tội MBTPCMT là: Tất cả các hành vi bán, trao đổi chất ma túy nêu trên, phải có tính “trái phép”. Tính “trái phép” ở đây là trái với pháp luật, trái với những quy định do Nhà nước ban hành. Bởi ma túy cũng là chất hóa học được áp dụng trong khoa học, nghiên cứu và y học, nên một số các cơ quan có thẩm quyền được phép mua bán phục vụ công tác chuyên môn (Ví dụ: Các Tổng 12
  19. công ty dược phẩm Trung ương được mua chất ma túy về để sản xuất thành thuốc tân dược; Hay Viện khoa học kỹ thuật hình sự - Bộ Công an được mua chất ma túy về để làm thí nghiệm. . . ). Việc mua bán chất ma túy của các cơ quan có thẩm quyền này tuy hành vi cũng giống với hành vi khách quan của tội MBTPCMT, nhưng lại là hành vi hợp pháp, nên không phải là hành vicủa tội MBTPCMT. Đây cũng là điểm khác giữa tội MBTPCMT với Tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 249; với Tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 250; và với Tội “Chiếm đoạt chất ma túy” được quy định tại Điều 252. - Mặt chủ quan của tội phạm MBTPCMT. Trong mặt chủ quan của tội phạm MBTPCMT, lỗi là yếu tố quan trọng trong việc xác định tội phạm và TNHS. Các hành vi phạm tội trong tội MBTPCMT tại Điều 251 BLHS 2015 được thể hiện do lỗi cố ý trực tiếp, tức là người thực hiện hành vi MBTPCMT nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, tuy thấy trước được tác hại của hành viMBTPCMT gây ra cho xã hội, có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn xử sự khác, phù hợp với đòi hỏi của xã hội nhưng họ vẫn thực hiện và mong muốn hậu quả đó xảy. Đối tội MBTPCMT này không có trường hợp nào phạm tội do cố ý gián tiếp. Trong dấu hiệu chủ quan của loại tội MBTPCMT, mục đích phạm tội tuy không phải là dấu hiệu bắt buộc, nhưng lại là dấu hiệu quyết định đến việc định tội danh. Trên thực tế, các nhà làm luật cũng dựa trên cơ sở dấu hiệu “mục đích” của người phạm tội để xây dựng văn bản hướng dẫn giải quyết tội MBTPCMT này (Thông tư 17). Đây là một quy định rất khoa học, hợp lý, giải quyết được sự bế tắc trong thực tiễn và đã được kiểm nghiệm tính hợp lý của nó qua việc giải quyết hàng nghìn vụ án MBTPCMT của các cơ quan tố tụng. Ví dụ: Cùng là một hành vi mua ma túy về, nhưng nếu mục đích của người mua là để sử dụng thì hành vi đó sẽ cấu thành tội Tàng trữ tráiphép 13
  20. chất ma túy (nếu đủ khối lượng quy định); Còn nếu mục đích là để bán thì hành vi đó sẽ cấu thành tội MBTPCMT. . . Ngoài ra, trong dấu hiệu chủ quan của tộiMBTPCMT , cần lưu ý vấn đề sau: Trong trường hợp một người biết là chất ma túy giả nhưng bằng cách nào đó khiến người khác tưởng là chất ma túy thật nên mua bán, trao đổi thì người đó không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm về ma túy mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS 2015, nếu thỏa mãn các dấu hiệu khác nữa trong cấu thành tội phạm của tội này. Cụ thể: Nếu đối tượng biết là ma túy giả, nhưng vẫn cố tình mang đi bán để kiếm lời thì không khởi tố về tội MBTPCMT mà khởi tố về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Như vậy cho thấy, không phải hành vi mua bán “ma túy” nào cũng bị xử lý về tội MBTPCMT mà còn tùy thuộc vào kết quả giám định xem chất đó có phải là ma túy không và phụ thuộc ý thức chủ quan của người 30 thực hiện hành vi đó như thế nào, lúc đó mới quyết định được tội danh của người phạm tội. Nói cách khác, khi gặp trường hợp giám định chất không phải là ma túy, thì ý thức chủ quan của người phạm tội sẽ là vấn đề quyết định đến tội danh của người đó là tội gì. - Chủ thể của tội phạm MBTPCMT. Theo luật hình sự Việt Nam hiện hành thì “chủ thể của tội phạm là con người cụ thể đã cố ý hoặc vô ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được pháp luật hình sự quy định là tội phạm trong tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định do luật quy định và trong một số trường hợp khác có dấu hiệu đặc biệt được chỉ ra trong điều luật tương ứng” [46, tr. 180]. Chủ thể của tội phạm là bất kỳai đạt đổ tuổi theo luật định, có năng lực TNHS. Tại khoản 1, Điều 251 BLHS 2015 đều quy định mức hình phạt từ hai 14
  21. năm đến bảy năm tù là thuộc loại tội nghiêm trọng. Theo quy định tại điều 12 BLHS 2015 thì: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác. 2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này” [32]. Như vậy, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu TNHS về các hành vi phạm tội khoản 1 Điều 251 BLHS 2015, nhưng phải chịu TNHS về các hành vi phạm tội theo các khung tăng nặng từ khoản 2 trở lên quy định tại các điều 251 BLHS 2015. Trừ trường hợp “phạm tội nhiều lần” điểm b khoản 2 Điều 194 tương ứng với điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS 2015, theo hướng dẫn tại mục 10 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến 31 dưới 16 tuổi thực hiện hành vi MBTPCMT từ hai lần trở lên, nếu tổng trọng lượng chất ma túy của các lần cộng lại dưới mức tối thiểu hoặc không xác định được tổng trọng lượng chất ma túy của tất cả các lần đó đến mức tối thiểu quy định tại điểm g, h, i, k, l, m, n hoặc o khoản 2 Điều 194 BLHS thì họ không phải chịu TNHS về tội MBTPCMT”. Về năng lực TNHS: Người có năng lực TNHS là người từ đủ tuổi chịu TNHS và không thuộc các trường hợp quy định tại Điều 21 BLHS 2015: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự” [32]. Như vậy về chủ thể của tội phạm MBTPCMT là người có năng lực trách 15