Luận văn Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_ap_dung_phap_luat_hinh_su_doi_voi_toi_cuop_giat_tai.pdf
Nội dung text: Luận văn Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN NGỌC HIỆP ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN NGỌC HIỆP ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. ĐỒNG ĐẠI LỘC Hà Nội, năm 2021
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn “Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai” là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS. Đồng Đại Lộc. Các thông tin, số liệu, trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ chính xác, có nguồn gốc rõ ràng và kết quả nghiên cứu trong luận văn là do tôi tự thu thập, phân tích một cách khách quan, trung thực, phù hợp với thực tế. Những kết luận khoa học trong luận văn là kết quả tôi đạt được trong quá trình nghiên cứu, chưa từng được công bố trong các công trình khoa học khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN
- LỜI CẢM ƠN Tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới Học viện Khoa học xã hội, Khoa Luật, cùng Quý Thầy Cô giáo đã tham gia giảng dạy đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Đặc biệt với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi đến PGS.TS Đồng Đại Lộc - người thầy đã tận tình hướng dẫn trực tiếp cho tôi hoàn thành luận văn khoa học này và cảm ơn tất cả bạn bè, đồng nghiệp, người thân đã động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành chương trình học của mình. Nếu trong quá trình làm luận văn có những thiếu sót, tôi rất kính mong Quý Thầy Cô, các chuyên gia và những người quan tâm đến đề tài của tôi đóng góp ý kiến, giúp đỡ để đề tài nghiên cứu của tôi được hoàn thiện hơn. Chân thành cảm ơn! Trân trọng!
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN 9 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản. 9 1.2. Khách thể, chủ thể, nội dung của áp dụng pháp luật hình sự đối với tôi cướp giật tài sản 13 1.3. Các yếu tố tác động đến áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản 31 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TẠI HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI 36 2.1. Tổng quan về tình hình xét xử tội cướp giật tài sản tại huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai 36 2.2. Thực tiễn định tội danh đối với tội cướp giật tài sản từ 2015 – 2020 tại huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai 39 2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản từ 2015 – 2020 tại huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai 48 2.4. Những vi phạm, sai lầm trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội cướp giật tài sản và nguyên nhân 56 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐÚNG ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI 65 3.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng pháp luật hình sự đúng đối với tội cướp giật tài sản 65 3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản 69 KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Một trong những tư tưởng lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện ở “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” và trong “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020” là tư tưởng xây dựng xã hội ta trở thành một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; ”. Và để đạt được điều đó thì việc đấu tranh phòng, chống tội cướp giật tài sản ở nước ta hiện nay là một đòi hỏi cấp bách, có ý nghĩa cương lĩnh và chiến lược, đảm bảo cho một xã hội phát triển toàn diện. Trong những năm gần đây, tình hình phạm tội hình sự trên cả nước ngày càng có những diễn biến vô cùng phức tạp và đang có chiều hướng gia tăng, thay đổi theo hướng chuyển dịch sang các loại tội có tính chất nghiêm trọng, trong đó tội phạm cướp giật tài sản chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu tội phạm nói chung và có xu hướng trẻ hóa về độ tuổi. Theo thống kê của Cục Cảnh sát hình sự (C02), trung bình mỗi năm trên toàn quốc xảy ra gần 3.000 vụ cướp giật tài sản, chiếm tỷ lệ dao động trên dưới 9% số vụ xâm phạm sở hữu và khoảng 5% tổng số vụ phạm pháp hình sự; theo Cục Cảnh sát hình sự, Bộ Công an, tội phạm cướp, cướp giật tài sản được xác định là một trong những tội phạm nguy hiểm, nghiêm trọng, gây tâm lý hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân và ảnh hưởng tiêu cực đến trật tự an toàn xã hội. Ở các tỉnh, thành phố lớn vấn nạn cướp giật tài sản không chỉ gây thiệt hại về tài sản, sức khỏe của nạn nhân mà còn mang lại không ít những hệ lụy khác, nhất là của khách du lịch, của người nước ngoài tạo hình ảnh xấu cho con người, đất nước chúng ta, ảnh hưởng đến tâm lý bất an cho người dân trong nước và người nước ngoài đến Việt Nam du lịch, làm việc và sinh sống. Chính bởi lẽ đó, Đảng và chính quyền các cấp tại tỉnh Đồng Nai nói chung và 1
- huyện Thống Nhất nói riêng đã và đang tích cực đấu tranh phòng chống và quyết tâm truy bắt, hạn chế tội phạm cướp giật tài sản. Huyện Thống Nhất có vị trí là cửa ngõ Đông Bắc vào TP.Hồ Chí Minh. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi để tội phạm ẩn náu chờ thời cơ hoạt động và tẩu thoát sau khi gây án. Trước tình hình đó, các cơ quan chức năng huyện Thống Nhất đã chủ động triển khai nhiều giải pháp đấu tranh phòng chống tội phạm. Nhờ đó, phần lớn các vụ án xảy ra trên địa bàn như: trộm cắp, cướp tài sản, cố ý gây thương tích đều nhanh chóng được tìm ra thủ phạm. Thực tế trong thời gian 6 năm vừa qua, trên địa bàn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai cũng đã xảy ra nhiều vụ cướp giật tài sản, nhất là những khu vực gần các khu công nghiệp là những nơi có đông công nhân sinh sống. Phần lớn kẻ xấu lợi dụng sự sơ hở của nạn nhân hoặc đường vắng, trời tối để đe dọa, uy hiếp, ra tay cướp, cướp giật tài sản. Dù các cơ quan chức năng đã tích cực phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, triệt phá nhiều băng nhóm cướp giật tài sản song do tâm lý chủ quan, lơ là cảnh giác và việc người dân có xu hướng mang theo nhiều tài sản khiến các đối tượng cướp giật ngày càng manh động. Theo đánh giá của các cơ quan chức năng, từ đầu năm 2020 đến nay, số vụ cướp giật tài sản tuy có giảm nhưng vẫn diễn biến khá phức tạp, thủ đoạn không mới. Theo thống kê trên địa bàn toàn huyện xảy ra 10 vụ cướp giật tài sản, chủ yếu là cướp xe máy, điện thoại di động, giỏ xách, nữ trang Và cũng đã triển khai nhiều giải pháp đấu tranh, phòng ngừa tội phạm cướp giật tài sản. Kết quả đã điều tra, truy bắt 08 vụ, bắt tổng cộng 10 đối tượng, thu hồi khoảng 100 triệu đồng tài sản trả lại cho người bị hại; trong đó tiến hành truy tố, xét xử 03 vụ. Hoạt động phòng ngừa tình hình tội cướp giật tài sản bước đầu đã thu được những kết quả đáng khích lệ, số vụ và số bị cáo phạm tội cướp giật tài 2
- sản đã giảm theo từng năm, nhiều vụ cướp giật tài sản đã được phát hiện, ngăn chặn kịp thời; công tác điều tra, truy tố, xét xử được thực hiện nghiêm túc, đúng người, đúng tội, đảm bảo tính răn đe của pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Nhìn chung các bản án được tuyên đối với tội phạm cướp giật tài sản đã nhận được sự đồng tình từ dư luận xã hội. Tuy nhiên bên cạnh thành công thì trong quá trình giải quyết vụ án cướp giật tài sản vẫn xảy ra tình trạng thiếu thống nhất trong định tội danh, bỏ sót những trường hợp có tình tiết định khung tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc vận dụng không đúng, nhầm lẫn trong việc áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự dẫn đến kết quả là quyết định hình phạt không chính xác. Những hạn chế, thiếu sót này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có thể kể đến như: việc phân tích, đánh giá thực trạng tình hình tội cướp giật tài sản trong thời gian qua chưa thật sự đầy đủ và chính xác; chưa có sự nhận thức thống nhất, đúng đắn, toàn diện những vấn đề lý luận về tội cướp giật tài sản: nguyên nhân, điều kiện phát sinh, tồn tại, phát triển của tình hình tội phạm này; chưa có sự chính xác, thiếu tính đồng bộ trong điều chỉnh pháp luật hình sự cũng như các quy định của pháp luật hình sự còn cứng nhắc, rời rạc, chưa được cụ thể, rõ ràng dưới góc nhìn từ phía các cơ quan, những người áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản. Từ những vấn đề trên, học viên mong muốn thông qua việc nghiên cứu của mình về những vấn đề lý luận, thực trạng áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội cướp giật tài sản tại huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai và qua đó đề xuất các giải pháp góp phần bảo đảm cho việc áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội trạng trên. Đây cũng chính là lý do mà học viên chọn đề tài "Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai”. 3
- 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong quá trình hoàn thành luận văn, học viên đã nghiên cứu, tham khảo một số công trình khoa học về pháp luật hình sự nói chung và về tội cướp giật tài sản nói riêng. Có thể kể đến “Giáo trình lý luận chung về định tội danh” của GS.TS Võ Khánh Vinh do Nxb Khoa học Xã hội ấn hành năm 2013, cuốn sách "Ðịnh tội danh và quyết định hình phạt" của tác giả Dương Tuyết Miên do Nxb Công an nhân dân in ấn năm 2004; Luận án Tiến sĩ luật học của TS. Chu Thị Trang Vân, năm 2009 về “Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án Việt Nam”; Luận án Tiến sĩ luật học của TS. Nguyễn Ngọc Chí, năm 2000 về “Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu”; các công trình nghiên cứu những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung trong Cuốn sách: "Tội phạm học, luật hình sự, luật tố tụng hình sự” do tập thể tác giả của Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật biên soạn dưới sự chủ biên của GS.TSKH Đào Trí Úc được Nxb Chính trị Quốc gia ấn hành vào năm 1994; bài viết “Về các tội xâm phạm sở hữu” của tác giả Nguyễn Mai Bộ, Tạp chí TAND số 7, 8 và 9/2018 có nội dung phân tích các dấu hiệu pháp lý của 13 tội trong chương XVI Bộ luật Hình sự năm 2015 về các tội xâm phạm sở hữu và các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; bài viết “Tội cướp giật tài sản và vấn đề chuyển hóa tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam” của tác giả Phạm Minh Tuyên, Tạp chí TAND số 19 tháng 10/2007, phân tích tình tiết định khung trách nhiệm tăng nặng hình sự là “dùng thủ đoạn nguy hiểm” và “hành hung khi tẩu thoát” và vấn đề chuyển hóa tội phạm từ tội cướp giật tài sản thành cướp tài sản; bài viết “Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội cướp giật tài sản qua một số tình huống thực tiễn” của Trịnh Tiến Việt trên tạp chí khoa học pháp lý số 4/2000. Ngoài ra, tội cướp giật tài sản cũng được nghiên cứu khá cụ thể, chi tiết trong một số công trình nghiên cứu của các luận văn thạc sĩ đi trước như luận 4
- văn thạc sỹ của Nguyễn Thị Ngọc Lệ về “Khía cạnh nạn nhân trong nguyên nhân và điều kiện của tội cướp giật tài sản trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa”; luận văn “Tội cướp giật tài sản - Những vấn đề Lý luận và thực tiễn” của thạc sỹ Nguyễn Việt Hà năm 2009; luận văn thạc sỹ năm 2004 của Lê Thị Thu Hà “Tội cướp giật tài sản theo luật hình sự Việt Nam một số khía cạnh pháp lý hình sự và tội phạm học”; luận văn thạc sĩ “Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Văn Tùng năm 2018. Tất cả các công trình khoa học đã công bố nêu trên đều có liên quan đến tội cướp giật tài sản, trong đó đề cập đến những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật hình sự và việc áp dụng các quy định pháp luật hình sự tội cướp giật tài sản vào thực tiễn tại các địa phương khác nhau trên cả nước. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào chuyên sâu về những vấn đề lý luận pháp luật hình sự Việt Nam và thực trạng áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội cướp giật tài sản trên địa bàn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Và với việc tham khảo các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố ở trên đã góp phần giúp cho học viên tiếp cận, học hỏi thêm về những lý luận, về phương pháp điều chỉnh pháp luật, về đánh giá và áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản trong quá trình hoàn thành luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản trên địa bàn Huyện Thống Nhất, Tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến 2020, luận văn đưa ra các yêu cầu và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng pháp luật hình sự đúng đối với tội cướp giật tài sản trong thời gian tới. 5
- 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhằm hướng tới việc đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau đây: + Nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản theo pháp luật Việt Nam. + Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định về tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự VN trên địa bàn Huyện Thống nhất, Tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2015 – 2020. + Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về tội cướp giật tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam trên địa bàn Huyện Thống nhất, Tỉnh Đồng Nai. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là dựa trên các quan điểm khoa học, những quy định về pháp luật hình sự Việt Nam hiện tại đối với tội danh cướp giật tài sản và thực tiễn khi định tội danh cũng như việc áp dụng hình phạt đối với tội này tại Huyện Thống nhất, Tỉnh Đồng Nai. 4.2. Phạm vi nghiên cứu + Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội cướp giật tài sản được quy định tại Điều 171 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), trong đó tập trung khảo sát thực tiễn định tội danh và áp dụng hình phạt đối với tội này là hai nội dung chính. + Phạm vi nghiên cứu về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn Huyện Thống Nhất, Tỉnh Đồng Nai + Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Nghiên cứu các số liệu thu thập từ thực tiễn xét xử tội cướp giật tài sản trong giai đoạn 2015-2020 theo các số liệu thống kê tại Tòa án. 6
- 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận: Việc nghiên cứu, phân tích những vấn đề trên của đề tài được thực hiện dựa trên những cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với các chủ trương, chính sách và đường lối của Đảng, Nhà nước trong quá trình đấu tranh, phòng chống đối với tội phạm nói chung, đấu tranh phòng chống đối với tội phạm cướp giật tài sản nói riêng, trong đó nêu rõ về quan điểm áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam đối với tội cướp giật tài sản, về vấn đề bảo vệ công lý, quyền con người và trong quá trình cải cách tư pháp. 5.2. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu lý luận: nguồn tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài là hệ thống các văn bản pháp lý, các tài liệu đã được công bố, các công trình nghiên cứu khoa học, các bản án cùng với thu thập số liệu từ công tác báo cáo, thống kê của các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan chức năng có liên quan đến áp dụng pháp luật đối với tội cướp giật tài sản trên địa bàn huyện Thống Nhất. Phương pháp phân tích, đánh giá, tổng hợp: dựa trên các số liệu thống kê, tổng hợp và phân tích trong quá trình nghiên cứu để đánh giá tình hình, nguyên nhân, điều kiện và thực trạng công tác áp dụng pháp luật đối với tội cướp giật tài sản trên địa bàn huyện Thống Nhất, từ đó đề xuất các giải pháp hữu hiệu. Phương pháp so sánh: được sử dụng chủ yếu trong việc đánh giá những biến động về tình hình tội cướp giật tài sản với các tội phạm nói chung trên địa bàn huyện Thống Nhất; từ đó làm căn cứ để đánh giá mức độ, hiệu quả đạt được trong công tác triển khai và áp dụng các quy định pháp luật hình sự. Các phương pháp trên được sử dụng đan xen với nhau trong quá trình hoàn thành luận văn để tạo ra kết quả nghiên cứu hữu ích, rút ra những kết luận và kiến nghị để pháp luật hình sự ngày càng hoàn thiện. 7
- 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn: + Về mặt lý luận: đây là kết quả nghiên cứu góp phần trang bị, bổ sung về mặt nhận thức lý luận thêm sâu hơn, đầy đủ hơn đối với tội cướp giật tài sản; về cách nhìn nhận và đánh giá áp dụng pháp luật hình sự vào thực tiễn trong quá trình xét xử, định tội danh và quyết định hình phạt đối với loại tội phạm này. Những điểm mới của luận văn sẽ hướng đến việc hoàn thiện các chính sách và áp dụng pháp luật hình sự cho tội cướp giật tài sản nói riêng và có thể mang tính chất tham khảo cho các tội phạm có tính chất tương đồng nói chung. + Về mặt thực tiễn: luận văn cũng là kết quả nghiên cứu từ thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội cướp giật tài sản trên địa bàn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, góp phần nâng cao kỹ năng phân tích, phán xét đúng đắn, đưa ra quyết định hợp tình, hợp lý trong việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với các vụ án cướp giật tài sản cụ thể tại địa phương và đây còn là tài liệu tham khảo cho các hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, học tập đối với những người quan tâm đến chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự. 7. Kết cấu của luận văn: Nội dung chính của luận văn đựợc cấu trúc gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản từ thực tiễn tại địa bàn huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nhằm đảm bảo việc áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản trên địa bàn Huyện Thống Nhất, Tỉnh Đồng Nai. 8
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản. 1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật hình sự Pháp luật hình sự nước ta quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lý trong lĩnh vực hình sự được nhà nước đứng ra giải quyết, can thiệp và thông qua áp dụng pháp luật hình sự để giải quyết, là công cụ nghiêm khắc nhất trong hệ thống pháp luật của nhà nước. Pháp luật hình sự sau khi được ban hành và có hiệu lực phải được các chủ thể thực hiện một cách nghiêm chỉnh. Áp dụng pháp luật hình sự là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt mang tính tổ chức và quyền lực nhà nước, được hiểu là một hoạt động thực tiễn pháp lý nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật hình sự trong từng trường hợp cụ thể đối với hành vi của người thực hiện bị nhà nước xem là tội phạm và được thực hiện theo một trình tự do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội phạm nói chung và đối với tội cướp giật tài sản nói riêng là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước hoặc cán bộ, công chức có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể quan hệ pháp luật hình sự thực hiện những quy định của pháp luật hình sự, hoặc tự mình căn cứ vào những quy định của pháp luật để quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật hình sự. Từ những luận điểm trên có thể hiểu áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản là hoạt động do các chủ thể có thẩm quyền tiến hành nhằm cá biệt hoá quy phạm pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản thành quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm cụ thể, đối với các cá 9
- nhân, tổ chức trong trường hợp phạm tội cướp giật tài sản. Chẳng hạn, bằng việc xét xử người đã thực hiện hành vi cướp giật tài sản, nhà nước thông qua Tòa án buộc người đó phải chịu hình phạt đối với hành vi phạm tội của mình (tức là thực hiện nghĩa vụ của họ). Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự do các cơ quan nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền theo quy định thực hiện nhằm đảm bảo cho pháp luật được thi hành, không phụ thuộc vào tính tự giác của các chủ thể khác trong xã hội. Thông qua đó, các quy phạm pháp luật tìm thấy sự liên kết chặt chẽ với đời sống xã hội đồng thời chuyển hóa những yêu cầu chung vào các quan hệ xã hội cụ thể. Chính vì vậy, hoạt động áp dụng pháp luật đối với tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng có những ảnh hưởng và tác động sâu sắc đến mọi mặt của đời sống xã hội. Đối với xã hội, hình ảnh thực tế của pháp luật được nhìn thấy thông qua các hoạt động áp dụng pháp luật cụ thể. Trong số các hoạt động áp dụng pháp luật, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các Cơ quan điều tra, Viện Kiểm Sát và Tòa án có vị trí và ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Không giống như trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự thoạt nhìn dường như không có những tác động xã hội rộng lớn bởi nó chỉ liên quan từng cá nhân cụ thể. Tuy nhiên, Pháp luật hình sự bảo vệ những giá trị được nhà nước coi là quan trọng nhất đối với sự phát triển chung của xã hội. Chính vì vậy, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự chính là hoạt động nhằm chuyển hóa các quy định của pháp luật hình sự đến thực tế đời sống xã hội và thực sự có những tác động sâu sắc đến sự phát triển của xã hội. Như vậy, hoạt động áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản là việc các cơ quan được nhà nước trao cho thẩm quyền thực thi các quy định pháp luật hình sự đối với tội phạm cướp giật tài sản. 10
- 1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật hình sự Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội phạm nói chung và đối với tội cướp giật tài sản nói riêng có các đặc điểm: – Áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động thể hiện tính tổ chức, quyền lực nhà nước bởi lẽ Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự là sự tiếp tục thể hiện ý chí của nhà nước, thông qua hoạt động áp dụng pháp luật, ý chí nhà nước thể hiện trong các quy phạm pháp luật trở thành hiện thực trong thực tế, đuợc thể hiện một cách cụ thể trong các trường hợp cụ thể. Khi áp dụng pháp luật hình sự, trên cơ sở các quy định của pháp luật, các chủ thể có thẩm quyền áp dụng có thể ban hành những mệnh lệnh, quyết định có giá trị bắt buộc phải tôn trọng hoặc thực hiện đối với đối tượng áp dụng cũng như thể hiện ý chí đơn phương của chủ thể có thẩm quyền áp dụng. Các mệnh lệnh, quyết định áp dụng pháp luật của các cơ quan, tổ chức nhà nước sẽ được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp, trong đó có cả biện pháp cưỡng chế nhà nước. Theo quy định pháp luật, mỗi chủ thể chỉ có thể áp dụng pháp luật trong một phạm vi nhất định. Áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động có tính tổ chức rất cao vì nó vừa là hình thức thực hiện pháp luật vừa là hình thức chủ thể có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện các quy định của pháp luật, do vậy, hoạt động này phải được tiến hành theo những điều kiện, trình tự, thủ tục rất chặt chẽ do pháp luật quy định. – Áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động nhằm cá biệt hoá các quy phạm pháp luật hình sự hiện hành vào từng trường hợp cụ thể, từng tổ chức, cá nhân cụ thể. Áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động giải quyết các vụ việc thực tế, cụ thể trên cơ sở các quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự chung, nó được đặt ra không phải dành cho một cá nhân, tổ chức cụ 11
- thể, cá biệt mà là dành cho một nhóm (loại) đối tượng nhất định. Mặt khác, cách xử sự được nêu ra trong quy phạm pháp luật trong nhiều trường họp cũng không cố định. Khi áp dụng pháp luật, chủ thể có thẩm quyền căn cứ vào quy phạm pháp luật, đưa ra cách xử sự cụ thể đối với chủ thể được (bị) áp dụng pháp luật, xác định cho họ được làm gì, không được làm gì, phải làm gì, làm như thế nào một cách rất cụ thể. – Áp dụng pháp luật hình sự là hoạt động thể hiện tính sáng tạo Các vụ việc cụ thể xảy ra trong cuộc sống hết sức đa dạng và phức tạp, trong khi đó pháp luật thường mang tính chất khái quát, không mô tả tỉ mỉ từng tình tiết của sự việc, ngược lại nó thường chỉ dự liệu những điều kiện, hoàn cảnh có tính chất phổ biến, điển hình. Do vậy, khi áp dụng pháp luật, các chủ thể có thẩm quyền áp dụng phải nghiên cứu kĩ vụ việc, so sánh, đối chiếu với các quy định của pháp luật, lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp để áp dụng sao cho đúng người, đúng sự việc, đúng mức độ, đúng quan điểm, tư tưởng mà quy phạm pháp luật đã nêu. Bên cạnh đó, trong thực tế, nhiều trường họp xảy ra những vụ việc đòi hỏi cơ quan, nhà chức trách có thẩm quyền phải giải quyết nhung không có quy định của pháp luật để áp dụng. Tất cả những trường hợp đó đều đòi hỏi chủ thể có thẩm quyền phải có ý thức pháp luật cao, có kinh nghiệm thực tiễn phong phú, đồng thời phải linh hoạt, sáng tạo để giải quyết các vụ việc đã xảy ra trong thực tế cuộc sống một cách đúng đắn. 1.1.3. Ý nghĩa áp dụng pháp luật hình sự Áp dụng pháp luật hình sự nói chung và đối với tội cướp giật giật tài sản nói riêng một cách đúng đắn có ý nghĩa vô cùng quan trọng để pháp luật đi vào cuộc sống, một mặt bảo đảm tính nghiêm minh, trừng phạt đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo đảm cho tính toàn vẹn những giá trị được pháp luật bảo vệ. Đồng thời, còn mang ý nghĩa góp phần giáo dục cũng như răn đe đến toàn xã hội. Tuy nhiên ngược lại nếu việc áp dụng pháp luật hình sự 12
- không đúng đắn không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến những quyền cơ bản nhất của công dân, của con người mà còn làm xói mòn niềm tin của mỗi người dân vào tính nghiêm minh và công bằng của pháp luật. Cũng chính vì lẽ đó trong số các hoạt động áp dụng pháp luật thì hoạt động áp dụng pháp luật hình sự luôn được đặt trong những giới hạn khắt khe nhất về nội dung và thủ tục. Giá trị của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản thể hiện ở chỗ vụ việc được giải quyết hoàn toàn phù hợp với những đặc điểm, điều kiện cụ thể của nó trong giới hạn chung mà pháp luật hình sự quy định đối với loại tội phạm này. Các cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng pháp luật đóng vai trò người tổ chức cho các cá nhân, tổ chức đó thực hiện pháp luật hình sự. 1.2. Khách thể, chủ thể, nội dung của áp dụng pháp luật hình sự đối với tôi cướp giật tài sản 1.2.1. Khách thể của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội cướp giật tài sản: 1.2.1.1. Khái niệm tội cướp giật tài sản. Tội cướp giật tài sản đã được quy định rất sớm trong pháp luật hình sự nước ta và ngày càng được bổ sung, hoàn thiện qua các đạo luật hình sự ở từng thời kỳ. Có thể thấy cướp giật tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội vì đã xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác cũng như xâm phạm đến trật tự công cộng. Trước đây khi chưa có Bộ luật hình sự, loại tội phạm này đã được quy định trong các Pháp lệnh quy định về việc trừng trị các tội xâm phạm tài sản. Đến khi có Bộ luật hình sự năm 1985 thì vẫn có hai tội cướp giật tài sản khác nhau - tội cướp giật tài sản xã hội chủ nghĩa và tội cướp giật tài sản của công dân. Và khi Bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành đã nhập hai tội này thành tội cướp giật tài sản. Tại Điều 136 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tội cướp giật tài sản được quy định như 13
- sau: “Người nào cướp giật tài sản của người khác thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm ”. Đến BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tội cướp giật tài sản được quy định tại Điều 171 thuộc chương XVI các tội xâm phạm sở hữu. Tuy rằng Bộ luật hình sự không mô tả cụ thể hành vi cướp giật tài sản thể hiện như thế nào nhưng căn cứ vào khoa học pháp lý hình sự và thực tiễn quá trình công tác điều tra, truy tố, xét xử tội này thì cướp giật tài sản có thể được hiểu là hành vi nhanh chóng, công khai chiếm đoạt tài sản của người khác một cách bất ngờ rồi nhanh chóng tẩu thoát mà theo quy định của Bộ luật hình sự phải bị xử lý hình sự. Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về tội cướp giật tài sản như sau: “Tội cướp giật tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự cố ý thực hiện bằng cách nhanh chóng, công khai chiếm đoạt tài sản đang do người khác quản lý một cách bất ngờ với động cơ, mục đích vụ lợi”. Cướp giật tài sản là một trong bốn tội phạm được quy định trong nhóm tội chiếm đoạt mang tính chất công khai cả về hành vi khách quan và ý thức chủ quan của chủ thể; được thực hiện một cách cố ý và phân biệt bởi tính chất, đặc điểm của hành vi. Cướp giật tài sản là hành vi lợi dụng sự sơ hở của chủ tài sản trong đó bao gồm sơ hở sẵn có hoặc do chính thủ phạm tạo ra nhằm nhanh chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng tẩu thoát. Có thể nói đây chính là đặc trưng của hành vi cướp giật tài sản, cho phép phân biệt giữa hành vi cướp giật tài sản với các dạng hành vi chiếm đoạt tài sản khác. Do vậy, để xác định một hành vi chiếm đoạt tài sản có phải là cướp giật tài sản hay không cần chú ý đến dấu hiệu công khai và nhanh chóng. Tính chất công khai của hành vi chiếm đoạt được thể hiện rõ qua việc người phạm tội hoàn toàn không có ý định che dấu hành vi chiếm đoạt tài sản của mình đối với người quản lý tài sản nhưng không có tính chất đối đầu; việc chiếm đoạt tài sản được thực hiện ngay sau khi chủ sở hữu hoặc người quản 14
- lý tài sản đang có mặt hoặc theo cách thức khiến họ có thể phát hiện hành vi đó ngay khi hoặc sau khi nó được thực hiện. Yếu tố nhanh chóng đã góp phần tạo nên sự bất ngờ đối với người quản lý tài sản, là dấu hiệu phản ánh thủ đoạn của người phạm tội. Sự sơ hở, lơ là trong việc quản lý tài sản có thể do chủ tài sản hoặc trong một số trường hợp do người phạm tội chủ động tạo ra nhằm mục đích tiếp cận tài sản được thuận lợi, dễ dàng hơn, làm cho người bị hại không kịp ứng phó. Sau khi thực hiện xong hành vi chiếm đoạt tài sản, người phạm tội nhanh chóng tìm đường tẩu thoát để trốn tránh sự truy đuổi của của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Ngoài việc hiểu rõ những dấu hiệu chung của các tội phạm nói chung, cần phải hiểu rõ các dấu hiệu pháp lý của các tội cụ thể. Trong đó việc nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản cho phép nhận thức rõ ràng, đầy đủ hơn về các đặc điểm, bản chất pháp lý đặc trưng cũng như tính nguy hiểm cao của tội cướp giật tài sản và cũng là cơ sở để nhận biết, phân biệt giữa tội danh này với tội danh khác một cách chính xác bởi lẽ giữa tội cướp giật tài sản với một số tội xâm phạm sở hữu khác có tính chất chiếm đoạt tài sản có ranh giới tương đối mong manh. Từ đó góp phần trong khi định tội danh, quyết định hình phạt đối với tội phạm và người phạm tội cụ thể; giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. 1.2.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản. Cướp giật tài tài sản là một tội phạm cụ thể có các dấu hiệu pháp lý được thể hiện trong 4 yếu tố cấu thành tội phạm bao gồm: * Khách thể của tội phạm Khách thể của tội phạm được hiểu “là quan hệ xã hội cụ thể hoặc một nhóm quan hệ xã hội cụ thể được một quy phạm pháp luật hình sự bảo vệ và bị một tội phạm trực tiếp xâm hại". Tội cướp giật tài sản cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân, nhưng chủ yếu là quan hệ tài sản. Trên thực 15