Luận văn Áp dụng pháp luật dân sự về hiệu lực của di chúc trong thực tiễn xét xử của tòa án
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Áp dụng pháp luật dân sự về hiệu lực của di chúc trong thực tiễn xét xử của tòa án", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_ap_dung_phap_luat_dan_su_ve_hieu_luc_cua_di_chuc_tr.pdf
Nội dung text: Luận văn Áp dụng pháp luật dân sự về hiệu lực của di chúc trong thực tiễn xét xử của tòa án
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ PHƢƠNG THANH ÁP DỤNG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VỀ HIỆU LỰC CỦA DI CHÚC TRONG THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2010
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ PHƢƠNG THANH ÁP DỤNG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VỀ HIỆU LỰC CỦA DI CHÚC TRONG THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Phùng Trung Tập HÀ NỘI - 2011
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA DI CHÚC 4 1.1. Tổng quan về di chúc theo pháp luật dân sự 4 1.2. Điều kiện có hiệu lực của di chúc 5 1.2.1. Di chúc do cá nhân lập 5 1.2.1.1. Điều kiện để di chúc được coi là hợp pháp 5 1.2.1.2. Những yêu cầu khác đối với di chúc 15 1.2.2. Hiệu lực của di chúc 18 1.2.2.1. Thời điểm có hiệu lực của di chúc 19 1.2.2.2. Xác định mức độ có hiệu lực của di chúc 22 1.2.3. Hiệu lực di chúc chung của vợ chồng 27 1.2.4. Những hạn chế về quyền định đoạt của người lập di chúc 32 (theo Điều 669 Bộ luật Dân sự) Chương 2: ÁP DỤNG PHÁP LUẬT DÂN SỰ VỀ HIỆU LỰC CỦA 37 DI CHÚC TRONG THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN 2.1. Thực trạng tranh chấp và giải quyết tranh chấp về thừa kế 37 theo di chúc 2.2. Các trường hợp tranh chấp về thừa kế theo di chúc và 41 nguyên nhân của nó 2.2.1. Tranh chấp giữa người khác với người thừa kế theo di chúc 41
- 2.2.2. Tranh chấp giữa người thừa kế theo luật với người thừa kế 43 theo di chúc 2.2.3. Tranh chấp giữa những người thừa kế theo di chúc với nhau 45 2.3. Thực tiễn giải quyết các tranh chấp về thừa kế theo di chúc 45 2.3.1. Tranh chấp về hiệu lực của di chúc do di chúc miệng nhưng 46 không có hai người làm chứng ghi chép như quy định, tuy là di chúc có điều kiện nhưng Tòa án vẫn xử theo di chúc 2.3.2. Tranh chấp về hiệu lực của di chúc miệng và di chúc bằng 48 văn bản 2.3.3. Tranh chấp di sản do các thừa kế có ý kiến khác nhau về 51 di chúc 2.3.4. Tranh chấp về hiệu lực của di chúc do di chúc đã lập không 53 đúng thủ tục mà pháp luật quy định 2.3.5. Tranh chấp do người lập di chúc đã định đoạt cả tài sản của 55 người khác 2.3.6. Tranh chấp thừa kế do di chúc bị hư hỏng không xác định 56 được nội dung 2.3.7. Tranh chấp di sản thừa kế do người làm chứng di chúc 57 không đủ điều kiện theo quy định của pháp luật Chương 3: HƯỚNG HOÀN THIỆN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HIỆU 60 LỰC CỦA DI CHÚC 3.1. Về vấn đề nội dung của di chúc 60 3.1.1. Về quyền của người lập di chúc 60 3.1.2. Về quyền thừa kế 61 3.1.3. Về người không được quyền hưởng di sản 62 3.1.4. Về người thừa kế 63 3.2. Về vấn đề hình thức của di chúc 64 3.2.1. Về việc từ chối nhận di sản của người thừa kế 64
- 3.2.2. Về sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ đối với việc 65 lập di chúc của người tròn mười lăm tuổi nhưng chưa đủ mười tám tuổi 3.2.3. Đối với di chúc có chữ viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu 66 3.2.4. Về người làm chứng 67 3.2.5. Về di chúc bằng văn bản không có người làm chứng 67 3.2.6. Về di chúc có chứng nhận của công chứng Nhà nước hoặc 68 chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn 3.2.7. Quy định lại các loại di chúc 69 3.3. Về hiệu lực của di chúc 70 3.3.1. Về thời điểm mở thừa kế và thời điểm có hiệu lực của di chúc 70 3.3.2. Về mức độ hiệu lực của di chúc 71 3.3.3. Bỏ Điều 660 Bộ luật Dân sự: Di chúc bằng văn bản có giá 72 trị như di chúc được công chứng, chứng thực 3.3.4. Về thay thế di chúc 72 3.3.5. Về di chúc bị thất lạc, hư hại 73 3.3.6. Về việc giải thích di chúc 74 3.4. Hiệu lực di chúc chung vợ chồng 75 3.4.1. Về những định hướng chung 75 3.4.2. Các kiến nghị cụ thể 78 3.5. Về Điều 669 của Bộ luật Dân sự: Cách tính 2/3 của một suất 86 thừa kế theo pháp luật 3.6. Sự thống nhất giữa văn bản luật và văn bản hướng dẫn thực 88 hiện luật KẾT LUẬN 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 90
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Thừa kế là một chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam. Khi xã hội càng phát triển, các mối quan hệ kinh tế và xã hội cũng phát triển đa dạng, nếu như trước đây vấn đề thừa kế được điều chỉnh bởi các quy phạm đạo đức, phong tục tập quán thì hiện nay đã chịu sự điều chỉnh trực tiếp của các quy phạm pháp luật về thừa kế. Chế định thừa kế tuy là một chế định khá hoàn chỉnh trong Bộ luật Dân sự năm 2005 nhưng vẫn còn có những thiếu sót, hạn chế. Theo thống kê của ngành Tòa án trong những năm gần đây, số vụ việc tranh chấp về thừa kế luôn có số lượng lớn và phức tạp trong các tranh chấp về dân sự - điều này là hoàn toàn bình thường trong giai đoạn quá độ chuyển giao giữa hai thời kỳ cũ và mới như ở Việt Nam. Hoàn thiện các quy định về thừa kế là cơ sở để luật đi vào thực tiễn đời sống, là căn cứ để giải quyết các vấn đề liên quan đến thừa kế. 2, Tình hình nghiên cứu đề tài Tính đến thời điểm hiện nay đã có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu về thừa kế được công bố. Các công trình khoa học này thường tập trung nghiên cứu một vấn đề trong thừa kế như: thừa kế theo pháp luật, thừa kế theo di chúc, về di sản thừa kế, thừa kế thế vị, về người thừa kế không được hưởng di sản, Các công trình tiêu biểu có thể kể đến là: "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay", của Tiến sĩ Phùng Trung Tập, Nhà xuất bản Tư pháp, 2004; "Luật Thừa kế Việt Nam", của Tiến sĩ Phùng Trung Tập, Nhà xuất bản Hà Nội, 2008; "Hoàn thiện quy định về thừa kế trong Bộ luật Dân sự", của Tiến sĩ Phạm Văn Tuyết, Tạp chí Luật học, số Đặc san về sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự, tháng 11/2003); "Di chúc và vấn đề hiệu lực
- của di chúc", của Tiến sĩ Phạm Văn Tuyết, Tạp chí Luật học, số 6/1995; "Di sản thừa kế và thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với di sản thừa kế", của Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn, Tạp chí Luật học, số 11/2007; Những công trình nói trên chỉ đề cập đến các vấn đề theo hướng nghiên cứu cụ thể mà chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện vấn đề: Áp dụng pháp luật dân sự về hiệu lực của di chúc trong thực tiễn xét xử của Tòa án. Do vậy, học viên chọn đề tài Áp dụng pháp luật dân sự về hiệu lực của di chúc trong thực tiễn xét xử của Tòa án để làm luận văn Cao học Luật của mình với tính chất chuyên sâu và không có sự trùng lặp với bất kỳ công trình khoa học nào khác về vấn đề này đã được công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu đề tài * Mục đích: Luận giải để chứng minh những điểm hoàn thiện và chưa hoàn thiện của quy định về điều kiện có hiệu lực của di chúc. Vấn đề áp dụng pháp luật dân sự về hiệu lực của di chúc trong thực tiễn xét xử của Tòa án: những vướng mắc, khó khăn, Đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung để góp phần hoàn thiện các quy định về điều kiện có hiệu lực của di chúc. * Nhiệm vụ của luận văn Luận văn có nhiệm vụ phân tích những quy định phù hợp, chưa phù hợp hoặc chưa đồng bộ của Bộ luật Dân sự với các quy định hướng dẫn thực hiện Luật; Thống kê những tranh chấp, khó khăn vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định pháp luật dân sự về hiệu lực của di chúc thừa kế. Qua đó đưa ra được những giải pháp hoàn thiện. * Phạm vi nghiên cứu đề tài Luận văn chỉ nghiên cứu và phân tích các điều kiện có hiệu lực của di chúc theo pháp luật Việt Nam.
- 4. Phương pháp tiếp cận vấn đề Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học liên ngành và chuyên ngành; coi trọng phương pháp kết hợp lôgic với lịch sử, tổng hợp, so sánh, phương pháp chuyên gia; tổng kết thực tiễn, 5. Những điểm mới của luận văn Trên cơ sở phân tích ưu nhược điểm của những quy định pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc, luận văn đề cập đến thực trạng áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp về thừa kế theo di chúc, qua đó đề xuất hướng hoàn thiện của pháp luật về hiệu lực di chúc. Luận văn sẽ bám sát thực tế áp dụng luật - cụ thể là việc áp dụng pháp luật dân sự về hiệu lực của di chúc trong thực tiễn xét xử của Tòa án để đưa ra nhận xét cụ thể hơn về tình hình thực hiện pháp luật về điều kiện có hiệu lực của di chúc, góp phần hoàn thiện chế định thừa kế. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Các điều kiện có hiệu lực của di chúc Chương 2: Áp dụng pháp luật dân sự về hiệu lực của di chúc trong thực tiễn xét xử của Tòa án Chương 3: Hướng hoàn thiện của pháp luật về hiệu lực của di chúc.
- Chương 1 CÁC ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA DI CHÚC 1.1. Tổng quan về di chúc theo pháp luật dân sự Điều 646 Bộ luật Dân sự quy định: "Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết" [17]. Di chúc còn được gọi là chúc thư do cá nhân còn sống tự nguyện lập ra với mục đích dịch chuyển tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người còn sống khác, sau khi người lập di chúc chết. Người lập di chúc dựa vào ý chí và tình cảm của mình (mang tính chủ quan) định đoạt cho người khác được hưởng di sản sau khi qua đời. Do tính chất chủ quan của ý chí và mục đích chuyển dịch tài sản của người lập di chúc cho người khác hưởng sau khi chết đã phản ánh tính độc lập và tự định đoạt của người lập di chúc. Di chúc theo quy định của pháp luật dân sự phải nhằm chuyển tài sản của người lập di chúc cho người khác sau khi người lập di chúc chết. Xét về tính chất của giao dịch dân sự, di chúc là sự thể hiện ý chí đơn phường, hoàn toàn độc lập, tự định đoạt ý chí của cá nhân người lập di chúc mà không có bất kỳ ý kiến của ai, do vậy di chúc là giao dịch dân sự một bên. Giao dịch này là loại giao dịch đặc biệt, tuy các điều kiện của chủ thể lập di chúc, ý chí của chủ thể, nội dung và hình thức của di chúc đều phù hợp với quy định của pháp luật về các điều kiện có hiệu lực của di chúc nhưng di chúc chỉ phát sinh hiệu lực thi hành sau khi người để lại di chúc chết. Người được hưởng thừa kế theo di chúc chỉ có quyền nhận tại sản của người lập di chúc kể từ khi người lập di chúc chết. Người thừa kế theo di chúc nhận di sản và là chủ sở hữu của di sản được hưởng và thừa kế theo di chúc là căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản của người thừa kế. Tuy nhiên, di chúc thể hiện ý chí chủ quan của người lập, do đó ý định của người lập di chúc nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi
- chết có thể không thể thực hiện được do tài sản được định đoạt trong di chúc đã không còn vào thời điểm mở thừa kế của người để lại di chúc đó hoặc những người thừa kế được chỉ định thừa kế theo di chúc đã chết trước, chết cùng thời điểm với người lập di chúc hoặc đều không có quyền hưởng di sản, tại các trường hợp này, mục đích nhằm chuyển tài sản của người lập di chúc cho người thừa kế không đạt được. Phần của di chúc không thể thực hiện được là phần di chúc vô hiệu. 1.2. Điều kiện có hiệu lực của di chúc 1.2.1. Di chúc do cá nhân lập Di chúc là một loại giao dịch đặc biệt, chỉ có hiệu lực khi người lập ra nó đã chết nên việc lập di chúc không thể thực hiện bằng cách ủy quyền cho người khác thay mình lập. Trước hết, di chúc muốn được coi là hợp pháp thì phải đáp ứng đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch đã được quy định tại Điều 122. Ngoài ra, nó còn phải đáp ứng các điều kiện có hiệu lực của di chúc, quy định tại Điều 652 Bộ luật Dân sự. 1.2.1.1. Điều kiện để di chúc được coi là hợp pháp a) Người lập di chúc phải có năng lực chủ thể Người lập di chúc theo quy định tại Điều 647 Bộ luật Dân sự phải là người từ đủ 18 tuổi có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 có thể lập di chúc nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc. Pháp luật nước ta công nhận người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Vì vậy không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo, người từ đủ mười tám tuổi không bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình đều có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho người thừa kế. Lập di chúc là việc chủ sở hữu
- tài sản quyết định chuyển quyền sở hữu tài sản của mình cho những người cụ thể sau khi mình chết. Điều đó đòi hỏi người lập di chúc phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có sự phù hợp giữa nhận thức lý trí của một người với hành vi mà họ thực hiện. Theo quy định của pháp luật thì người đã thành niên có quyền lập di chúc (trừ những người không có năng lực hành vi dân sự) nhưng pháp luật lại không quy định rõ người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định tại Điều 23 Bộ luật Dân sự "Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự" khi lập di chúc có phải hỏi ý kiến và phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật của người đó hay không? Vì theo khoản 2 Điều 23 Bộ luật Dân sự quy định: " giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày" [17]. Như vậy, nếu theo quy định tại khoản 1 Điều 647 Bộ luật Dân sự thì những người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định tại Điều 23 Bộ luật Dân sự vẫn có quyền lập di chúc với tư cách của người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự. Tuy nhiên, nếu xét theo quy định tại khoản 1 Điều 647 Bộ luật Dân sự thì: một người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nhưng đã bị hạn chế theo bản án có hiệu lực pháp luật thì khi người đó xác lập giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện. Như vậy, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo bản án có hiệu lực, khi lập di chúc mà không có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật thì di chúc do người đó lập ra có hiệu lực hay không có hiệu lực pháp luật? Không thống nhất về cách hiểu sẽ gây ra những sai sót trong việc xác định chủ thể có quyền lập di chúc và tính hợp pháp khi định đoạt ý chí của người lập di chúc.
- Về nguyên tắc, chỉ những người đủ mười tám tuổi trở lên mới có quyền lập di chúc. Tuy nhiên, người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi (người có năng lực hành vi dân sự một phần) - dù chưa thành niên nhưng đã có sự nhận thức nhất định, trong một số trường hợp, họ có thể đã có tài sản riêng, có thể lập di chúc nhưng với điều kiện là "lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý". Sự đồng ý này chưa được một văn bản pháp luật nào quy định hay giải thích cụ thể nên có nhiều cách hiểu khác nhau. Theo ý kiến cá nhân em, sự đồng ý ở đây được hiểu là sự đồng ý cho họ lập di chúc. Còn về nội dung di chúc, họ được toàn quyền quyết định. Vì nếu hiểu theo nghĩa: sự đồng ý với việc định đoạt trong nội dung của di chúc thì vô hình chung, pháp luật đã can thiệp đến quyền định đoạt, đến ý chí tự nguyện của người lập di chúc - trong khi ý chí tự nguyện là một trong những điều kiện để di chúc được coi là hợp pháp. Tuy nhiên, để có sự rõ ràng, thống nhất trong cách hiểu của người dân, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải có quy định cụ thể: Sự đồng ý hay không đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ đối với việc lập di chúc của người từ tròn mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được thể hiện trước khi di chúc được lập bằng một văn bản riêng. Nếu di chúc đã được lập mà những người nói trên không có ý kiến gì thì coi như họ đã đồng ý cho lập và vì vậy, di chúc được coi là hợp pháp. Cha, mẹ hoặc người giám hộ có quyền giám sát và chỉ có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố di chúc vô hiệu nếu họ phát hiện có hành vi lừa dối, cưỡng ép người chưa thành niên trong việc lập di chúc mà không được tự mình hủy bỏ di chúc. b Người lập di chúc tự nguyện Tự nguyện hiểu theo nghĩa khái quát: là việc thực hiện theo ý mình, do mình mong muốn, không phụ thuộc vào ý chí của bất kỳ chủ thể nào khác. Người lập di chúc phải tự nguyện khi lập di chúc, không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép.
- Tự nguyện của người lập di chúc được hiểu là sự thống nhất giữa ý chí và sự bày tỏ ý chí của họ. Sự thống nhất trên chính là sự thống nhất giữa mong muốn chủ quan - mong muốn bên trong của người lập di chúc với hình thức thể hiện ra bên ngoài sự mong muốn đó. Vì vậy, việc phá vỡ sự thống nhất giữa mong muốn bên trong và việc thể hiện ra bên ngoài làm mất đi tính tự nguyện của người lập di chúc. Sự thống nhất này có thể bị phá vỡ trong trường hợp người lập di chúc bị cưỡng ép, đe dọa hoặc di chúc do họ lập trên cơ sở bị lừa dối. Di chúc sẽ không được coi là hợp pháp nếu không có sự thống nhất giữa các vấn đề đã được thể hiện trong nội dung của bản di chúc với ý chí chủ quan của người lập ra nó. Cụ thể, sẽ bị coi là không có sự thống nhất nói trên nếu di chúc được lập ra trong những trường hợp sau: - Di chúc được lập ra khi người lập di chúc không còn minh mẫn, sáng suốt Khi người lập di chúc không còn minh mẫn, sáng suốt để làm chủ được hành vi của mình thì không thể có sự thống nhất giữa mong muốn về ý chí với sự biểu đạt ý chí ấy. Trong trường hợp này, người lập di chúc bị coi là không còn năng lực hành vi dân sự trong khi lập di chúc. - Di chúc được lập ra dưới sự tác động của người khác Tính thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí luôn có khả năng bị phá vỡ do nhiều nguyên nhân khác nhau. Sự tác động của người khác tới việc lập di chúc của một người sẽ làm cho di chúc không còn sự tự nguyện của họ. Vì vậy, di chúc sẽ bị coi là không có tính tự nguyện khi được lập trong những trường hợp sau đây: + Người lập di chúc bị đe dọa: Đe dọa là hành vi cố ý của một người nhằm làm cho người khác lo sợ mà phải thực hiện một việc nào đó theo mục đích của người đe dọa. Điều 132 Bộ luật Dân sự quy định: "Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh
- thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình" [17]. Về mặt chủ quan, hành vi đe dọa bao giờ cũng là hành vi cố ý nhằm đạt được mục đích nhất định. Mục đích của người có hành vi đe dọa thường là nhằm mang lại lợi ích cho chính người đó nhưng cũng có nhiều trường hợp người đe dọa người lập di chúc chỉ nhằm đưa lại lợi ích cho người khác. Tuy nhiên, nếu sự đe dọa của một người đối vối người lập di chúc không khiến người lập di chúc sợ, vẫn lập di chúc theo đúng suy nghĩ và ý định của mình thì di chúc đó vẫn có hiệu lực pháp luật. Sự đe dọa phải nghiêm trọng đến mức làm cho người bị đe dọa bị tê liệt ý chí, mất bình tĩnh, sợ hãi và buộc phải lập di chúc theo đúng yêu cầu của người đe dọa. Sự đe dọa thường hướng tới một hoặc nhiều vấn đề như: sức khỏe, tài sản, tính mạng, danh dự, uy tín, nhân phẩm của người bị đe dọa hoặc thân nhân của người đó. Như vậy, hành vi đe dọa chỉ được coi là căn cứ để xác định di chúc vô hiệu khi hành vi đó là sự đe dọa đến một trong những nội dung trên với tính chất cố ý, nhằm đạt được một mục đích nhất định và phải nghiêm trọng đến mức người bị đe dọa buộc phải lập di chúc theo yêu cầu của người đe dọa mà không còn sự lựa chọn nào khác. + Người lập di chúc bị lừa dối: Điều 132 Bộ luật Dân sự quy định: "Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó" [17]. Sự lừa dối chỉ được coi là căn cứ để tuyên di chúc vô hiệu khi sự lừa dối đó đã làm cho người lập di chúc suy nghĩ theo nó, tin vào thông tin lừa dối và vì thế nội dung của di chúc được định đoạt trên sự tác động của hành vi lừa dối. Nếu sự lừa dối đó không dẫn đến việc người bị lừa dối lập di chúc trái với
- mong muốn thực sự của mình, vẫn định đoạt theo ý chí độc lập của mình, không suy nghĩ theo sự lừa dối của người đó thì di chúc vẫn được coi là hợp pháp. Bản chất của lừa dối là gì? Về mặt khái niệm, lừa dối là thủ đoạn có tính toán trước của người này đối với người khác nhằm làm cho người bị lừa dối hiểu sai vấn đề mà quyết định một việc gì đó theo mục đích của người lừa dối. Có thể người lừa dối dùng những lời lẽ giả dối, những mưu mô, thủ đoạn, thông tin không đúng sự thật khiến cho người khác thiết lập một giao dịch theo ý của mình mà nếu như không có những hành động, thông tin đó, người bị lừa dối sẽ không bao giờ thiết lập giao dịch ấy. Như vậy, chỉ bị coi là lừa dối khi một người thực hiện một hành vi cố ý (có sự tính toán trước); Hành vi lừa dối có thể là một hành động nhưng cũng có thể là việc không hành động. Sự im lặng đôi khi bị coi là một sự lừa dối nếu một người biết được sự thật nhưng lại im lặng, không nói ra sự thật đó nhằm mục đích để người lập di chúc định đoạt theo hướng có lợi cho mình hoặc cho người khác theo ý muốn của mình. Người nói trên chỉ bị coi là lừa dối trong trường hợp người đó biết sự thật, đồng thời biết được việc lập di chúc của người để lại di sản nhưng không nói sự thật với người lập di chúc vì mục đích tư lợi. Trong những trường hợp khác sẽ không bị coi là lừa dối. Việc xác định sự im lặng (không nói sự thật) của một người có phải là lừa dối hay không có ý nghĩa hết sức quan trọng trong thực tế. Nó là căn cứ để xem xét hiệu lực của di chúc đồng thời cũng là căn cứ để xác định có tước quyền hưởng di sản hay không (nếu người im lặng là người thừa kế di sản). + Người lập di chúc bị cưỡng ép: Cưỡng ép có thể cưỡng ép về thể chất (đánh đập, giam giữ, ) hoặc về tinh thần (dọa làm một việc có thể làm mất danh dự, uy tín của người lập di chúc, ). Hành vi cưỡng ép rất gần với hành vi đe dọa. Trong thực tế đã có rất nhiều trường hợp từ cưỡng ép chuyển hóa sang đe dọa, ngược lại, trong hành vi đe dọa thường hàm chứa sự cưỡng ép.
- Tuy nhiên, bên cạnh sự tương đồng đó, hai hành vi này cũng có nhiều điểm khác biệt: nếu sự đe dọa là tác động làm cho người bị đe dọa sợ hãi thì hành vi cưỡng ép thường là việc dựa vào hoàn cảnh đặc biệt của người để lại di sản để dồn ép người đó phải miễn cưỡng lập di chúc theo mục đích của người cưỡng ép. Ví dụ: Biết được anh rể có con riêng, em vợ cưỡng ép anh rể phải lập di chúc để lại một phần di sản thừa kế cho mình, nếu không sẽ thông báo cho cơ quan, gia đình biết sự thật này. Tóm lại, những di chúc được lập ra do bị tác động của sự lừa dối, cưỡng ép, đe dọa hoặc do người lập di chúc không còn minh mẫn, sáng suốt đều là những di chúc không phản ảnh một cách trung thực về ý chí tự nguyện của người lập ra nó. Vì vậy chúng đều bị coi là di chúc không hợp pháp. Trong những trường hợp này, di chúc đương nhiên sẽ bị coi là vô hiệu. Trong trường hợp một người đưa đến cho người lập di chúc một thông tin không chính xác (không đúng sự thật) nhưng không cố ý làm cho người lập di chúc hiểu sai lệch, không có mục đích lừa dối, nhưng từ thông tin ấy, người lập di chúc đã hiểu sai lệch và đã quyết định vấn đề theo hướng sai lệch đó thì di chúc đó có bị coi là vô hiệu hay không? Theo học viên, vì một thông tin không đúng sự thật mà người lập di chúc hiểu sai lệch và đã lập một di chúc khác với ý chí chủ quan trước đó của mình cũng nên coi là thiếu tính tự nguyện của người lập di chúc. Nếu trường hợp này xảy ra khi giao kết hợp đồng dân sự hoặc thiết lập các giao dịch khác thì đương nhiên hợp đồng hoặc giao dịch đó bị coi là vô hiệu vì được thiết lập do sự nhầm lẫn (nếu có đơn khởi kiện). Khi quy định điều kiện để di chúc được coi là hợp pháp, Điều 652 Bộ luật Dân sự không quy định về nhầm lẫn. Vì thế, nếu di chúc được lập ra trong trường hợp nói trên có thể coi là di chúc được lập ra do sự nhầm lẫn của người lập di chúc để xác định di chúc đó vô hiệu hay không, hay coi đó là không minh mẫn, sáng suốt. Tình trạng "không minh mẫn, sáng suốt" theo học viên, được đánh giá trên cơ sở nhận thức lý trí,
- vì vậy không thể coi trường hợp này là "không minh mẫn, sáng suốt" được vì sự nhầm lẫn trên hoàn toàn do nhận thức chủ quan của người lập di chúc. Bên cạnh đó, vì di chúc chỉ có hiệu lực khi người lập di chúc chết nên việc xác định sự sai lệch trên có đúng là nhầm lẫn của người lập di chúc hay không, hay ý chí của người lập di chúc là như thế, là một việc không thể xác định được, có lẽ vì vậy mà các nhà làm luật không đưa yếu tố "nhầm lẫn" vào Điều 652 Bộ luật Dân sự. c) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội Nội dung của di chúc là sự thể hiện ý chí của người lập di chúc về việc định đoạt tài sản của mình cho những người thừa kế. Người lập di chúc chỉ định người thừa kế, giao nghĩa vụ cho người thừa kế, phân định di sản thừa kế, đưa ra các điều kiện để chia di sản thừa kế Ý chí của người lập di chúc phải phù hợp với ý chí của Nhà nước, không trái pháp luật, tuân thủ các quy định tại điểm 3 Điều 8 Bộ luật Dân sự (sử dụng di sản vào mục đích bất hợp pháp, chuyển giao tài sản cho các tổ chức bất hợp pháp ). Vi phạm các điều đó, di chúc sẽ bị vô hiệu. Ví dụ: Một di chúc sẽ bị coi là bất hợp pháp nếu trong di chúc đó người lập di chúc đã định đoạt tài sản của mình cho tổ chức phản động hoặc định đoạt tài sản của người khác, Ngoài ra, di chúc hợp pháp phải còn là di chúc có nội dung phù hợp với đạo đức xã hội. Đạo đức xã hội là một hình thái ý thức xã hội, luôn phụ thuộc vào tồn tại xã hội trong từng giai đoạn, từng thời kỳ nhất định. Vì vậy, đạo đức xã hội không mang tính cố định. Mỗi một thời đại, thậm chí trong cùng một xã hội thì mỗi một giai cấp khác nhau sẽ có một quan niệm khác nhau về đạo đức. Tuy vậy, không ai có thể phủ nhận được mối quan hệ hữu cơ giữa đạo đức và pháp luật. Đạo đức là cơ sở xã hội của pháp luật. Một nền pháp luật được hình
- thành nếu không phù hợp với đạo đức xã hội thì tính khả thi của nó sẽ bị hạn chế rất nhiều. Ngược lại, pháp luật là phương tiện để nâng đạo đức thành ý chí của một Nhà nước. Đạo đức xã hội là những trật tự công cộng, những thuần phong mỹ tục được hình thành từ một cơ sở kinh tế nhất định đã và đang được một cộng đồng người thừa nhận, tôn trọng. Với cơ sở kinh tế và chế độ chính trị của Nhà nước ta hiện nay, đạo đức xã hội là việc giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết tương thân tương ái của dân tộc Việt Nam. Việc lập di chúc có nội dung không trái pháp luật của một người mới chỉ là việc họ thực hiện bổn phận của một công dân. Ngoài bổn phận công dân, họ còn phải thực hiện bổn phận làm người. Đạo làm người đòi hỏi các cá nhân khi lập di chúc phải luôn hướng tới phong tục tập quán truyền thống nhân bản và tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết trong cộng đồng gia đình cũng như trong cộng đồng dân tộc. Vì vậy nếu nội dung di chúc có nội dung trái với đạo đức xã hội cũng sẽ bị coi là không hợp pháp. Điều 653 Bộ luật Dân sự quy định về nội dung của di chúc như sau: - Di chúc phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc. Việc ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc là căn cứ để xác định di chúc nào được lập trước, di chúc nào được lập sau trong trường hợp một người để lại nhiều bản di chúc thì bản di chúc lập sau cùng có hiệu lực thi hành. - Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc. Với tư cách là chủ thể lập di chúc, người lập di chúc phải ghi rõ họ, tên và nơi cư trú của mình, để có căn cứ xác định di chúc đó do ai lập ra, người đó có quyền lập di chúc hay không có quyền lập di chúc và việc đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ hợp pháp cho người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi lập di chúc. Chủ thể lập di chúc luôn luôn phải được xác định thông qua các yếu tố họ, tên, nơi cư trú của người đó. Ngược lại, nếu không biết rõ người lập di chúc là ai thì di chúc đó vô hiệu do không xác định được người để lại di sản là ai.
- - Di chúc phải ghi rõ ai là người được hưởng di sản, là cá nhân hay tổ chức, nơi cư trú của cá nhân được chỉ định hưởng di sản, trụ sở của pháp nhân. Người lập di chúc còn có quyền xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản. - Người lập di chúc phải ghi rõ di sản để lại bao gồm những tài sản gì, ở đâu. Di sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản thuộc quyền sở hữu của người lập di chúc (riêng đất đai là quyền sử dụng). - Người lập di chúc có quyền chỉ định người thực hiện nghĩa vụ nào đó vì lợi ích chung hoặc riêng nhưng theo nguyên tắc của pháp luật thừa kế thì nghĩa vụ giao cho người thừa kế thực hiện không thể lớn hơn giá trị phần di sản mà người thừa kế được hưởng. - Nếu người lập di chúc định đoạt phần tài sản dùng vào việc thờ cúng, phải ghi rõ đó là loại tài sản nào, ở đâu, giao cho ai quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng, chỉ rõ nghĩa vụ của người quản lý di sản này. - Nội dung của di chúc nếu có phần liên quan đến tài sản dùng để di tặng thì người được di tặng là ai, ở đâu, được di tặng tài sản gì? bao nhiêu? ở đâu? Những yếu tố này cần phải được xác định cụ thể trong nội dung của di chúc. Ngoài ra, khoản 2 Điều 653 Bộ luật Dân sự còn quy định: "Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng kí hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh sống thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc". d) Hình thức của di chúc không trái quy định của pháp luật Hình thức của di chúc là phương thức biểu hiện ý chí của người lập di chúc (nội dung của di chúc); là căn cứ pháp lý làm phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc, là chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho người được chỉ định trong di chúc, là chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho người được chỉ định trong di chúc. Vì vậy, chỉ những di chúc lập ra đúng với hoàn cảnh mà pháp luật đã dự
- liệu cũng như phù hợp với thủ tục, trình tự mà pháp luật đã quy định đối với từng loại di chúc tương ứng thì di chúc đó mới được coi là đã thỏa mãn các điều kiện này. 1.2.1.2. Những yêu cầu khác đối với di chúc Bộ luật Dân sự của nước ta còn quy định một số vấn đề khác mà quá trình lập di chúc phải tuân theo nhằm tăng cường tính xác thực của di chúc, qua đó bảo vệ ý nguyện đích thực của người để lại di sản. a) Yêu cầu đối với người chứng nhận, chứng thực và người làm chứng di chúc Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn là những người đại diện cho các cơ quan đó trong việc chứng nhận, chứng thực di chúc nhằm xác nhận về một di chúc là do chính người để lại tài sản tự nguyện lập ra trong trạng thái tinh thần minh mẫn, sáng suốt. Vì vậy, để tăng cường tính khách quan, bảo đảm độ trung thực trong việc chứng nhận, chứng thực di chúc, người chứng nhận, chứng thực phải là người không có liên quan gì đến việc hưởng di sản cũng như đến người thừa kế của người lập di chúc. Điều 659 Bộ luật Dân sự đã quy định về những người không được công chứng, chứng thực di chúc. Công chứng viên, người có thẩm quyền của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn không được công chứng, chứng thực đối với di chúc, nếu họ là: 1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; 2. Người có cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật; 3. Người có quyền, nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội dung di chúc. Nếu việc chứng nhận, chứng thực di chúc nhằm mục đích tạo cơ sở pháp lý để ghi nhận một sự kiện thực tế thì làm chứng trong di chúc cũng là việc góp phần nâng cao tính khách quan của di chúc. Muốn vậy, người làm