Luận văn Áp dụng biện pháp tạm giam từ thực tiễn Thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh

pdf 87 trang vuhoa 24/08/2022 9360
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Áp dụng biện pháp tạm giam từ thực tiễn Thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_ap_dung_bien_phap_tam_giam_tu_thuc_tien_thanh_pho_t.pdf

Nội dung text: Luận văn Áp dụng biện pháp tạm giam từ thực tiễn Thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI   NGUYỄN NHƯ SƠN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI   NGUYỄN NHƯ SƠN ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS NGUYỄN VĂN HIỂN Hà Nội, năm 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những tài liệu, số liệu sử dụng trong luận văn là trung thực, chính xác. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tôi xin chịu trách nhiệm về những lời cam đoan trên. Người cam đoan Nguyễn Như Sơn
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM 8 1.1. Các vấn đề lý luận về áp dụng biện pháp tạm giam trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam 8 1.2. Áp dụng biện pháp tạm giam theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 15 1.3. Khái quát lịch sử lập pháp về biện pháp tạm giam trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và quy định về biện pháp này trong pháp luật của một số nước trên thế giới 30 Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH 36 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến việc áp dụng biện pháp tạm giam trong hoạt động giải quyết vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh 36 2.2. Thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh 38 2.3. Đánh giá thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh 42 Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH 59 3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về biện pháp tạm giam 59 3.2. Những giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về biện pháp tạm giam 61 3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm giam trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh 67 KẾT LUẬN 79
  5. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra HĐXX: Hội đồng xét xử KSV: Kiểm sát viên TAND: Tòa án nhân dân TNHS: Trách nhiệm hình sự TTHS: Tố tụng hình sự VAHS: Vụ án hình sự VKS: Viện kiểm sát VKSND: Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
  6. DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 2.1. Tình hình khởi tố các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh từ năm 2016 đến năm 2020 39 Bảng 2.2. Tình hình áp dụng biện pháp tạm giam trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh từ năm 2016 đến năm 2020 40 Bảng 2.3. Tình hình giải quyết các trường hợp tạm giam trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh từ năm 2016 đến năm 2020 41 Bảng 2.4: Tình hình áp dụng biện pháp tạm giam trong tổng số bị can bị khởi tố mới hàng năm trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh từ năm 2016 đến năm 2020 52
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thành ngữ Việt Nam có câu: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” có nghĩa là một ngày trong tù bằng nghìn năm ở ngoài. Điều đó nói lên sự ảnh hưởng của hình phạt tù giam đối với con người dù người đó phạm tội cố ý hay vô ý. Trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay, việc bảo đảm quyền con người có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong mọi mặt đời sống xã hội. Kể từ khi bản Hiến pháp Việt Nam năm 2013 được ban hành, với tinh thần coi trọng bảo đảm, bảo vệ quyền con người, ở nước ta đã có sự chuyển biến rõ rệt về mặt lập pháp, cũng như thực tiễn về lĩnh vực quyền con người. Trong hoạt động tư pháp hình sự, nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng rất quan trọng, có tính cấp bách. Riêng trong hoạt động TTHS ở nước ta, số người bị áp dụng biện pháp tạm giam khi bị điều tra, truy tố, xét xử còn rất cao (theo Báo cáo số 139/BC-VKSTC ngày 26/12/2017 của VKSND (VKSND) tối cao và Báo cáo số 208/BC-VKSTC ngày 28/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tổng kết công tác kiểm sát năm 2017, 2018 thì năm 2016 chiếm 72%, năm 2017 chiếm 68% và năm 2018 chiếm 59,6%). Trong TTHS, các biện pháp ngăn chặn đóng vai trò vô cùng quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho việc tiến hành các hoạt động tố tụng nói riêng, công tác phòng, chống tội phạm nói chung. Việc quy định và áp dụng đúng đắn, chính xác các biện pháp ngăn chặn là bảo đảm cần thiết cho việc thực hiện tốt các nhiệm vụ của TTHS nhằm phát hiện nhanh chóng, chính xác, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh người phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Mặt khác, đây cũng là phương tiện pháp lý quan trọng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân đối với bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và cả người bị buộc tội cũng như những thân nhân của họ. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người có hành vi phạm tội đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình điều tra, giải quyết vụ án vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mệnh chính trị và các quyền cơ bản của công dân cũng như đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trong đó, biện pháp tạm giam được xem là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong TTHS. Biện pháp này có ý nghĩa quan 1
  8. trọng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thể hiện sự cương quyết của Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm quyền con người, quyền công dân không bị xâm hại cũng như các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án có thể đạt hiệu quả cao nhất. Người bị tạm giam sẽ bị cách ly khỏi xã hội trong thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền con người, quyền công dân như quyền tự do thân thể, cư trú, tự do đi lại . Đây là những quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Chính vì lẽ đó, việc áp dụng biện pháp này đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền phải hết sức thận trọng, nghiên cứu, vận dụng đúng đắn các quy định của pháp luật TTHS cùng các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, đồng thời phải căn cứ tình hình thực tiễn cụ thể trong từng vụ án, từng đối tượng phạm tội để có thể áp dụng một các phù hợp, hiệu quả nhất. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam ở nước ta nói chung, thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh nói riêng, bản thân nhận thấy tạm giam là một trong những biện pháp được áp dụng phổ biến trong quá trình TTHS. Trong nhiều trường hợp, việc áp dụng biện pháp này đã góp phần không nhỏ trong việc ngăn chặn tội phạm kịp thời, không để bị can, bị cáo trốn tránh pháp luật, bảo đảm cho việc thi hành án đạt hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được trong thời gian qua, việc áp dụng biện pháp tạm giam vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập nhất định. Đó là những hạn chế trong quy định của pháp luật về biện pháp tạm giam; sự yếu kém về nhận thức của tiến hành tố tụng khi áp dụng biện pháp này dẫn đến việc tạm giam bị can, bị cáo một cách tràn lan, không có căn cứ, nhiều trường hợp áp dụng trái quy định của pháp luật; coi tạm giam như một biện pháp nghiệp vụ điều tra để giải quyết vụ án; thời hạn tạm giam kéo dài Thêm vào đó là không ít trường hợp việc áp dụng, thay thế, hủy bỏ biện pháp tạm giam có dấu hiệu của sự tác động tiêu cực đối với các chủ thể có thẩm quyền. Điều này làm suy giảm niềm tin của người dân đối với tính tôn nghiêm 2
  9. của pháp luật, vào chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước trong giải quyết các VAHS. Những hạn chế, thiếu sót trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó, chủ yếu là do những quy định của pháp luật TTHS về biện pháp tạm giam còn nhiều sơ hở, thiếu sót, thiếu chặt chẽ dẫn đến việc áp dụng gặp nhiều khó khăn, thiếu thống nhất. Nhiều vấn đề về khoa học pháp lý TTHS về biện pháp tạm giam cần phải được làm sáng tỏ nhằm đảm bảo có được quan điểm thống nhất, toàn diện trong áp dụng biện pháp này như mục đích, căn cứ áp dụng, bản chất pháp lý và những căn cứ thay thế, hủy bỏ biện pháp tạm giam; chưa có những đánh giá, tổng kết thực tiễn áp dụng, thay thế, hủy bỏ biện pháp tạm giam để làm cơ sở đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này Bên cạnh đó, trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ trong các cơ quan tiến hành tố tụng còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Áp dụng biện pháp tạm giam từ thực tiễn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh” là vấn đề mang tính cấp bách, thiết thực, vừa mang tính thời sự vừa đảm bảo về mặt lý luận và thực tiễn đối với địa phương trong giai đoạn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Biện pháp ngăn chặn nói chung, tạm giam nói riêng là vấn đề quan trọng trong TTHS đã được quan tâm nghiên cứu trong nhiều sách, báo cũng như các công trình khoa học với nhiều mức độ, góc độ khác nhau. Trong đó, có thể kể đến các công trình nghiên cứu như: * Ở cấp độ sách chuyên khảo: - Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra của TS.Lê Hữu Thể (Chủ biên), NXB Tư pháp năm 2005. - Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học của GS.TS. Võ Khánh Vinh (Chủ biên), NXB Khoa học xã hội năm 2010. * Ở cấp độ đề tài nghiên cứu khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ: - Đề tài khoa học cấp Bộ: Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, do Ngô Quang Liễn và các thành viên thực hiện, năm 2007; 3
  10. - Luận án tiến sĩ Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam - thực trạng, nguyên nhân và giải pháp của Nguyễn Văn Điệp, Đại học Luật Hà Nội, năm 2005; - Luận văn thạc sĩ Cơ sở lý luận và thực tiễn kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam ở tỉnh Hòa Bình của Quách Đình Lực, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2009; - Luận văn thạc sĩ Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự Việt Nam của Nguyễn Phạm Tố Phong, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, năm 2013; - Luận văn thạc sĩ Kiểm sát tạm giữ, tạm giam từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định của Nguyễn Quốc Doanh, Học viện khoa học xã hội, năm 2015. * Ở cấp độ bài viết nghiên cứu khoa học trên các tạp chí chuyên ngành: - Bài viết: Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự của tác giả Đoàn Tấn Minh, Tạp chí TAND, số 7/2009; - Bài viết: Thẩm quyền của Viện kiểm sát trong việc quyết định áp dụng các biện pháp ngăn chặn và các biện pháp cưỡng chế tố tụng khác trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh, Tạp chí Kiểm sát, số 1/2011; - Bài viết: Những vướng mắc trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và kiến nghị sửa đổi, bổ sung của tác giả Phùng Văn Tài, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2012. Các công trình nghiên cứu trên đây đã nghiên cứu về một số khía cạnh nhất định của các biện pháp ngăn chặn nói chung, biện pháp tạm giam nói riêng. Thông qua đó, tác giả có thể kế thừa và phát triển các vấn đề mang tính lý luận về đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về biện pháp ngăn chặn tạm giam cũng như thực tiễn áp dụng biện pháp này tại địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. Do đó, việc nghiên cứu đề tài: “Áp dụng biện pháp tạm giam từ thực tiễn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh” mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trên phạm vi cả nước nói chung, địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh nói riêng. 4
  11. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Việc nghiên cứu luận văn nhằm mục đích làm rõ những vấn đề lý luận về biện pháp tạm giam trong TTHS của Việt Nam cũng như việc áp dụng biện pháp này trong thực tiễn giải quyết các VAHS trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. Từ đó xây dựng hệ thống giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định của pháp luật về biện pháp này và nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm giam trong thực tiễn. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lý luận về biện pháp tạm giam trong TTHS. - Làm rõ những quy định của pháp luật TTHS hiện hành về biện pháp tạm giam. - Làm rõ thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh để xác định những hạn chế, vướng mắc, tồn tại và bất cập trong quá trình áp dụng, từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá làm cơ sở cho việc hoàn thiện hệ thống quy định của pháp luật TTHS hiện hành. - Đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật TTHS cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm giam trong thực tiễn quá trình giải quyết VAHS. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề về biện pháp tạm giam trong Luật TTHS Việt Nam, kết hợp nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng biện pháp này trong thực tiễn địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh để làm rõ những hạn chế, vướng mắc, tồn tại, từ đó kiến nghị những giải pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm giam trong thực tiễn. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về biện pháp tạm giam và những quy định của Luật TTHS Việt Nam hiện hành về biện pháp này. Đồng thời, luận văn cũng nghiên cứu, làm rõ thực tiễn áp dụng biện pháp tạm giam của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. 5
  12. - Về không gian: Luận văn khảo sát thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam trên phạm vi địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. - Về thời gian: Luận văn khảo sát thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam từ năm 2016 đến năm 2020. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Việc nghiên cứu đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận là phương pháp duy vậy biện chứng của triết học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng linh hoạt và hợp lý các phương pháp nghiên cứu cụ thể trong quá trình nghiên cứu, cụ thể như: Diễn giải, quy nạp, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát và phương pháp chuyên gia. Khi sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể này, tác giả luôn tuân thủ cách tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học nhằm đạt được mục đích nghiên cứu đặt ra. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ thêm lý luận về biện pháp tạm giam trong TTHS. Trên cơ sở phân tích, làm rõ những quy định của pháp luật hiện hành cùng với việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động áp dụng biện pháp tạm giam trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh, luận văn đã kiến nghị những giải pháp thiết thực nhằm hoàn thiện hệ thống quy định về biện pháp tạm giam, đồng thời đưa ra được hệ thống giải pháp hữu hiệu và có tính khả thi, phù hợp điều kiện, hoàn cảnh thực tế của địa phương. 6.2. Về mặt thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc học tập, nghiên cứu nhằm nâng cao nhận thức về biện pháp tạm giam cũng như việc áp dụng biện pháp này trong thực tiễn. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu làm 3 chương: 6
  13. Chương 1: Các vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng biện pháp tạm giam. Chương 2: Thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về biện pháp tạm giam và nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm giam trên địa bàn thành phố Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh. 7
  14. Chương 1 CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM 1.1. Các vấn đề lý luận về áp dụng biện pháp tạm giam trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, ý nghĩa của biện pháp tạm giam 1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp tạm giam BLTTHS quy định nhiều biện pháp cưỡng chế nhà nước, được thực hiện bởi những cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhằm đạt được mục đích tố tụng nhất định. Căn cứ vào mục đích áp dụng, có thể phân loại các biện pháp này thành các nhóm: - Nhóm các biện pháp cưỡng chế đảm bảo thu thập và ghi nhận chứng cứ, bao gồm: khám xét người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm, xem xét dấu vết trên thân thể, thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử; - Nhóm các biện pháp bảo đảm cho quá trình tố tụng được tiến hành một cách thuận lợi, bao gồm: kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, áp giải bị can, bị cáo, dẫn giải người bị tố giác, kiến nghị khởi tố, nhân chứng, tạm đình chỉ chức vụ bị can; - Nhóm các biện pháp ngăn chặn, bao gồm: bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam, bảo lãnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh. Trong đó, biện pháp ngăn chặn chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến thân thể, quyền con người, các quyền nhân thân của công dân. Do đó, BLTTHS đã có những quy định hết sức chặt chẽ về các biện pháp này, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc áp dụng trong quá trình giải quyết VAHS. Từ đó, bảo đảm cho quá trình tố tụng của các cơ quan có thẩm quyền được thực hiện thuận lợi, việc chứng minh vụ án đạt kết quả tốt, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời góp phần đảm bảo việc thực hiện dân chủ, tôn trọng quyền con người, các quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ. Tạm giam là một biện pháp ngăn chặn trong TTHS. Việc áp dụng biện pháp này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của công dân như quyền bất khả 8
  15. xâm phạm về thân thể, quyền tự do đi lại Đây có thể xem là biện pháp mang tính cưỡng chế nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn. Do đó, việc nắm vững bản chất, căn cứ, thẩm quyền, thời hạn, thủ tục áp dụng biện pháp này không những giúp nâng cao hiệu quả quá trình giải quyết vụ án, góp phần vào công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Để có thể hiểu rõ cũng như áp dụng đúng đắn biện pháp tạm giam trong quá trình giải quyết VAHS, đã có nhiều công trình, tài liệu, sách báo đưa ra những khái niệm khác nhau về biện pháp tạm giam. Quyển “Từ điển giải thích thuật ngữ luật học” của Trường Đại học Luật Hà Nội. Nhà xuất bản Công an Nhân dân năm 1999 đã định nghĩa biện pháp tạm giam như sau: “Tạm giam là biện pháp cách ly bị can, bị cáo với xã hội trong thời gian nhất định nhằm ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội của bị can, bị cáo đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử thi hành án được thuận lợi” [34, tr. 224]. Bên cạnh đó, một số tác giả nghiên cứu khác cũng đưa ra các khái niệm về biện pháp tạm giam trong các công trình của mình. Tác giả Trần Quang Tiệp cho rằng: “Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do người có thẩm quyền của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng hạn chế tự do cá nhân với mức độ nghiêm khắc nhất trong thời hạn tương đối dài đối với bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn tội phạm, đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được tiến hành thuận lợi” [38, tr. 112]. Tác giả Nguyễn Mai Bộ cho rằng: “Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự mà theo đó Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong những trường hợp nhất định có thể tước tự do đối với bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử”[2, tr. 92]. Những khái niệm nêu trên nhìn chung đã chỉ ra được những vấn đề cơ bản về vị trí, vai trò, mục đích áp dụng của biện pháp tạm giam trong TTHS. Tuy vậy, chúng lại chỉ tập trung vào một khía cạnh nhất định của biện pháp này mà chưa có được sự thống nhất mang tính khái quát về biện pháp tạm giam, làm cơ sở cho việc nghiên cứu một cách toàn diện cũng như áp dụng một cách đúng đắn, phù hợp thực tiễn giải quyết vụ án. Theo đó, khái niệm biện pháp tạm giam cần thể hiện rõ bản 9
  16. chất, mục đích, đối tượng và điều kiện áp dụng biện pháp này. Để có thể khái quát được những vấn đề đó đòi hỏi phải làm rõ những đặc điểm cụ thể của biện pháp tạm giam trong quá trình TTHS. Trước hết, cần khẳng định tạm giam là biện pháp ngăn chặn mang tính nghiêm khắc, thể hiện thái độ của Nhà nước đối với người có hành vi phạm tội, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp tạm giam, các cơ quan có thẩm quyền cần phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật để bảo đảm các quyền con người, quyền cơ bản của công dân, tạo thuận lợi cho quá trình giải quyết VAHS, góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Bên cạnh đó, bản chất pháp lý của biện pháp tạm giam còn thể hiện ở chỗ đây là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước chỉ áp dụng đối với những đối tượng nhất định trong những trường hợp nhất định do pháp luật quy định, nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội, ngăn ngừa người phạm tội tiếp tục thực hiên tội phạm hoặc gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án. BLTTHS quy định đối tượng bị áp dung biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can hoặc bị cáo, tức là người đã bị khởi tố hoặc người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử. Tuy vậy, không phải tất cả bị can, bị cáo đều bị áp dụng biện pháp tạm giam mà biện pháp này chỉ có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp: - Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng. - Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc trường hợp: + Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm; + Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; + Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; + Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; + Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này. - Bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã. 10
  17. Một điểm cần lưu ý về đối tượng bị tạm giam là việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với những người nêu trên cũng chỉ mang tính “có thể” chứ không nhất thiết phải áp dụng. Hay nói cách khác, đây là biện pháp mang tính “lựa chọn áp dụng” chứ không phải là bắt buộc. Do đó, khi áp dụng biện pháp này, các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét tính pháp lý trên cơ sở quy định của BLTTHS mà còn là sự cần thiết đối với quá trình giải quyết vụ án cũng như không để bị can, bị cáo thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, tiếp tục phạm tội hay gây khó khăn, cản trở cho quá trình giải quyết VAHS. Tạm giam là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước, luật TTHS nước ta quy định một phạm vi hẹp các chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam. Đó là: - Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS quân sự các cấp; - Chánh án, Phó Chánh án TAND và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; HĐXX; - Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp. Trong trường hợp này, lệnh tạm giam phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành [24, tr 23 - 42]. Những chủ thể nêu trên chính là những người tiến hành tố tụng, có thẩm quyền chủ yếu trong quá trình giải quyết VAHS. Tạm giam là biện pháp tạm thời tước bỏ quyền tự do của bị can, bị cáo do cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng trong những trường hợp nhất định. Thời hạn tước bỏ quyền tự do này do pháp luật quy định căn cứ vào giai đoạn tố tụng, tính chất phức tạp của vụ án mà bị can, bị cáo thực hiện. Tạm giam là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất trong các biện pháp ngăn chặn của TTHS. Các biện pháp như giữ người trong trường hợp khẩn cấp, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm chỉ ảnh hưởng đến các quyền của công dân như quyền bất khả xâm phạm đến thân thể, quyền tự do giao tiếp, quyền hội họp Còn biện pháp bắt, tạm giữ cũng là những biện pháp ngăn chặn có tính nghiêm khắc cao, cũng hạn chế các quyền tự do của công dân nhưng mức độ (thời hạn) tác động, ảnh hưởng thấp hơn nhiều so với biện pháp tạm giam. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng tạm giam tuy nghiêm khắc song nó cũng chỉ là biện pháp ngăn chặn, 11
  18. một trong những biện pháp cưỡng chế trong quá trình tố tụng nhằm hỗ trợ cho quá trình giải quyết VAHS chứ không phải là hình phạt. Tạm giam được áp dụng nhằm ngăn chặn tội phạm, hành vi trốn tránh pháp luật của người phạm tội, bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được tiến hành một cách thuận lợi, đúng quy định của pháp luật. [40, tr 136-140]. Với mục đích ngăn chặn và phòng ngừa tội phạm, việc quy định biện pháp tạm giam trong BLTTHS có ý nghĩa rất quan trọng. Biện pháp tạm giam góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, củng cố, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự an toàn và vững mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân, tạm giam đúng sẽ góp phần bảo đảm sự dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp quy định như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú và đi lại tạm giam đúng còn bảo đảm cho việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm có hiệu quả, bảo đảm hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi, thể hiện sự chuyên chính của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về tạm giam như sau: Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong TTHS do người có thẩm quyền của CQĐT, VKS, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo trong những trường hợp do BLTTHS quy định nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó khăn, cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án [40]. 1.1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp tạm giam Ngoài mục đích chung, thống nhất là ngăn chặn không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án thì ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng biện pháp tạm giam còn có mục đích riêng nhằm bảo đảm thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng. Với vai trò là một biện pháp ngăn chặn, tạm giam có ý nghĩa rất lớn trong việc đấu tranh và phòng chống các loại tội phạm cũng như bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công dân, cụ thể: Một là, tạm giam góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, củng cố tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thể hiện sự kiên quyết của nhà nước trong việc 12
  19. đấu tranh phòng chống tội phạm. Với việc áp dụng biện pháp tạm giam sẽ đảm bảo cho trật tự xã hội được ổn định, pháp luật được giữ vững, chế độ xã hội chủ nghĩa được bảo vệ, các quyền cũng như lợi ích hợp pháp của công dân được tôn trọng. Hai là, tạm giam tạo cơ sở pháp lý vững chắc nhằm đảm bảo sự tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Đảm bảo không một công dân nào bị tạm giam trái pháp luật, khi áp dụng biện pháp tạm giam không đúng pháp luật quy định, công dân có quyền khiếu nại đến các chủ thể có thẩm quyền [11]. Ba là, tạm giam là biện pháp hữu hiệu bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đạt hiệu quả cao nhất. Bởi đây là biện pháp bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng, đảm bảo sự chính xác, khách quan của hoạt động tố tụng, ngăn ngừa các đối tượng tiếp tục phạm tội hoặc tìm cách xóa dấu vết phạm tội, chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ án. Ngoài ra, tạm giam còn đảm bảo cho việc thi hành đúng pháp luật và hiệu lực của bản án đã được tuyên. Cuối cùng, tạm giam thể hiện tính ưu việt của nhà nước ta. Đó là biện pháp bảo đảm cho mọi công dân được sống trong xã hội mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ được tôn trọng và bảo vệ, tránh được sự tấn công, xâm hại từ phía các đối tượng nhất định, bảo đảm cho mọi công dân yên tâm sinh sống, học tập, làm việc tham gia vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả cao nhất [34]. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm áp dụng biện pháp tạm giam Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật trong đó Nhà nước thông qua các cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự mình căn cứ vào các quy định của pháp luật, ra các quyết định áp dụng pháp luật vào trong những trường hợp cụ thể của đời sống xã hội. Trong quá trình TTHS, để đảm bảo việc giải quyết vụ án được đúng đắn, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng dựa trên chức năng của mình đã tiến hành những hoạt động áp dụng pháp luật nhằm làm rõ bản chất, nội dung của vụ án, xác định chính xác tội phạm và người phạm tội. Trong đó, áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung, áp dụng biện pháp tạm giam nói riêng chính là một trong những hoạt động áp dụng pháp luật quan trọng nhằm tạo điều kiện 13