Luận văn Áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự từ thực tiễn Thành phố Hà Nội
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự từ thực tiễn Thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_ap_dung_bien_phap_ngan_chan_doi_voi_nguoi_chua_than.pdf
Nội dung text: Luận văn Áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự từ thực tiễn Thành phố Hà Nội
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HỒNG CÔNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60. 38. 01. 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. Trần Văn Luyện HÀ NỘI, 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Hồng Công
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP 8 NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm về áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa 8 thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự 1.2. Căn cứ và đặc điểm áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người 19 chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TRẠNG ÁP 27 DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về việc áp dụng biện pháp 27 ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự 2.2. Thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa 42 thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra trên địa bàn thành phố Hà Nội 2.3. Nhận xét về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa 56 thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI 67 CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 3.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về biện pháp ngăn chặn đối với 67 người chưa thành niên phạm tội 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn đối 73 với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội KẾT LUẬN 79 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra TTHS : Tố tụng hình sự TA : Tòa án VKS : Viện kiểm sát
- DANH MỤC CÁC BẢNG 2.1 Số đối tượng áp dụng biện pháp bắt tại TP Hà Nội (2012- 43 2016) 2.2 Số đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ trên địa bàn 45 TP Hà Nội (2012-2016) 2.3 Số đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam tại TP Hà 48 Nội (2012-2016) 2.4 Số đối tượng bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú 51 tại TP Hà Nội (2012-2016) 2.5 Số đối tượng bị áp dụng biện pháp bảo lĩnh tại TP Hà Nội 53 (2012-2016)
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Với tính chất là thủ đô của Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học của cả nước. Những năm qua, thực hiện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng và Nhà nước, các cấp, các ngành và nhân dân trong toàn thành phố đã có sự đồng tâm hiệp lực, đoàn kết phấn đấu xây dựng thủ đô Hà Nội ngày càng phát triển nhanh, mạnh, vững chắc và khá toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - chính trị - an ninh - quốc phòng Song trong sự phát triển đáng mừng đó, thực tế trên địa bàn thành phố nhiều năm qua đã ẩn chứa nhiều vấn đề cần phải quan tâm, giải quyết. Đáng chú ý là tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện với tính chất, mức độ, hành vi nguy hiểm, nghiêm trọng, ngày càng gia tăng đòi hỏi các cấp, các ngành, các lực lượng chức năng phải cùng "vào cuộc" để ngăn chặn, kiềm chế, từng bước làm giảm loại tội phạm này, đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên phạm tội và góp phần bảo đảm TTATXH, phát triển KT-XH của đất nước. Như chúng ta đã biết, sau khi đất nước giành độc lập, chính quyền cách mạng về tay nhân dân lao động, Hồ chủ tịch đã có sự quan tâm đặc biệt, yêu cầu thực hiện quyền trẻ em một cách tích cực bởi người quan niệm: "Trẻ em là tương lai của đất nước, là thế hệ kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Nhiệm vụ này được Đảng, Nhà nước và xã hội duy trì thực hiện, Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định rõ: "Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục" [48]. Điều này cũng được thể chế hóa trong các ngành luật, văn bản pháp luật, nghị quyết, chỉ thị như: Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991, Bộ luật Hình sự năm 1999, BLTTHS năm 2003, chương trình hành động Quốc gia vì trẻ em tháng 12 năm 1991. 1
- Tuy nhiên, tình hình phạm tội do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn thành phố Hà Nội nói riêng, cả nước nói chung vẫn đang có nhiều diễn biến phức tạp, không chỉ gây mất trật tự an toàn xã hội mà hàng ngày, hàng giờ vẫn gây ra tâm lý hoang mang, bất ổn trong nhân dân. Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân: một bộ phận người chưa thành niên bị lôi kéo, dụ dỗ, kích động, có lối sống buông thả, a dua, có bản tính hung hăng, côn đồ và không loại trừ yếu tố thiếu sự quan tâm, chăm sóc của gia đình, người thân. Chính vì vậy, vấn đề giáo dục thế hệ trẻ, trang bị cho các em một lối sống lành mạnh và những kiến thức pháp luật cần thiết, căn bản nhất, có tác dụng làm giảm những tác động tiêu cực tạo nên những động cơ phạm tội, đây là giải pháp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đồng thời, các ngành, cơ quan chức năng cũng chủ động xây dựng kế hoạch, chương trình, biện pháp cụ thể cho việc phòng ngừa, ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội. Trên thực tế, việc quy định và áp dụng đúng đắn các biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa trong BLTTHS Việt Nam được coi là sự đảm bảo cao nhất cho quá trình phát hiện tội phạm để người phạm tội không thể tiếp tục thực hiện các hành vi phạm tội cũng như trốn tránh, cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Ở đây, một vấn đề đặt ra là việc thực hiện các biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa mang yếu tố nhạy cảm vì liên quan đến quyền, lợi ích của công dân, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, chỗ ở, bí mật đời tư Trong thực tiễn áp dụng pháp luật vẫn còn bộc lộ một số hạn chế nhất định, hậu quả dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm những nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, xâm phạm đến các quyền cơ bản của công dân Vì vậy việc nắm vững những quy định trong Chương V và Chương XXXII "về thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên" của BLTTHS năm 2003 là yếu tố quan trọng, cần thiết để các Điều tra viên vận dụng tốt vào thực tiễn hoạt động nghiệp vụ, tránh được những sai sót đáng tiếc xảy ra và góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm do người chưa thành niên thực hiện. 2
- Trong những năm qua lý luận về áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong điều tra các vụ án hình sự do người chưa thành niên gây ra chưa được quan tâm nghiên cứu, đặc biệt nghiên cứu đánh giá trên một địa bàn cụ thể là thành phố Hà Nội, chính vì vậy việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về áp dụng các biện pháp ngăn chăn đối với người chưa thành niên phạm tội và thực tiễn áp dụng để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra những giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả của việc áp dụng những quy định đó không chỉ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng. Do vậy, việc chọn đề tài "Áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội" làm luận văn thạc sĩ là cần thiết hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Những năm gần đây, vấn đề áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. - Nhóm các giáo trình, tập bài giảng: + Giáo trình “Chiến thuật điều tra hình sự” Học viện cảnh sát nhân dân, năm 2013. + Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội. - Nhóm những các đề tài khoa học và sách chuyên khảo như: + "Những điều cần biết về bắt người, tạm giữ, tạm giam " đúng pháp luật của tác giả Phạm Thanh Bình - Nguyễn Vạn Nguyên, nhà xuất bản pháp lý năm 1990, + Cuốn "Các biện pháp ngăn chặn trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam " của tác giả Nguyễn Mai Bộ, nhà xuất bản Công an nhân dân năm 1997. + Chuyên đề của Tòa án nhân dân tối cao về xây dựng mô hình Tòa án thân thiện với người chưa thành niên năm 2011 - Nhóm các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ: 3
- + Luận án tiến sĩ của tiến sĩ Đỗ Thị Phượng về “Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội” bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội năm 2007. + Luận văn thạc sĩ “Áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên địa bàn tỉnh Hà Tây của Cơ quan cảnh sát điều tra” của Nguyễn Văn Hoàng, bảo vệ năm 2008 tại Học viện cảnh sát nhân dân. - Nhóm các bài viết khoa học: + Tác giả Lê Cảm và Đỗ Thị Phượng với bài viết “Tư pháp hình sự đối với người chưa thành niên: những khía cạnh pháp lý hình sự, tố tụng hình sự, tội phạm học và so sánh luật học, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20 năm 2004 Ngoài ra còn có nhiều bài viết đăng trên tạp chí Công an nhân dân, tạp chí Kiểm sát, tạp chí Nhà nước và pháp luật cũng tập trung phân tích, đề cập đến những khó khăn, vướng mắc, những giải pháp về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trên từng địa bàn cụ thể với những đặc trưng riêng biệt của từng địa phương. Trước tình hình trên cho thấy, việc nghiên cứu đề tài "Áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội" trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn, góp phần đảm bảo thực hiện đúng pháp luật trong lĩnh vực này trên địa bàn thành phố Hà Nội. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích: Từ việc nghiên cứu lý luận và thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội trong giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016, đề tài chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của những hạn chế thiếu sót, đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam trên địa bàn thành phố Hà Nội. 4
- * Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, trong quá trình nghiên cứu tác giả tập trung giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau: - Làm rõ nhận thức chung về các biện pháp ngăn chặn và việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự theo quy định của BLTTHS Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. - Khảo sát, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật và việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2012 đến năm 2016. - Đánh giá kết quả việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự được quy định trong BLTTHS trên cơ sở đó rút ra những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót trong quá trình áp dụng luật. - Dự báo tình hình người chưa thành niên phạm tội và những yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự. Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn việc áp dụng biện pháp ngăn chặn với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội. * Phạm vi nghiên cứu 5
- Luận văn nghiên cứu việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội từ năm 2012 đến năm 2016, các số liệu vụ án được nghiên cứu thuộc các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự thành phố Hà Nội. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện cùng với những chính sách hình sự của Nhà nước đối với họ. Để thực hiện các nội dung nghiên cứu, tác giả sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, trực tiếp khảo sát, tổng kết kinh nghiệm, lấy ý kiến của các chuyên gia 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Làm rõ lý luận về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay. - Khảo sát thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2012 – 2016. Trên cơ sở đó tìm ra những ưu điểm, hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân của hạn chế thiếu sót trong quá trình áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội. - Kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự về việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên trong tố tụng hình sự Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của đề tài còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo nghiên cứu và cho cán bộ làm công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này. 6
- - Tìm ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự và các vấn đề nghiệp vụ để đảm bảo các biện pháp đó. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự. Chương 2: Quy định của pháp luật và thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hà Nội. 7
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm về áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm về biện pháp ngăn chặn Như chúng ta đã biết, trong xã hội có giai cấp thì nhà nước và pháp luật ra đời là một tất yếu khách quan của lịch sử. Ở mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác nhau cũng tồn tại kiểu nhà nước, pháp luật tương ứng. Cho dù ở bất kỳ nhà nước nào đi chăng nữa thì mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật luôn khăng khít và tác động qua lại lẫn nhau. Nhà nước dùng pháp luật để quản lý xã hội và duy trì xã hội trong trật tự, ổn định. Còn pháp luật là sự thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc của nhà nước. Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngoài những đặc điểm chung của nhà nước còn có sự khác biệt, đó là nhà nước xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, là nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Để bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được trong cuộc đấu tranh giai cấp, xây dựng xã hội mới, Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam một mặt là tổ chức chính trị hành chính, một cơ quan cưỡng chế nhưng đồng thời là một tổ chức quản lý kinh tế xã hội của toàn thể người dân lao động. Bộ máy cưỡng chế hành chính của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là bộ máy của giai cấp công nhân và nhân dân lao động tổ chức ra để trấn áp các phần tử chống đối lại sự nghiệp đổi mới, giữ vững an ninh trật tự, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội đất nước. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân". 8
- Để thực hiện được điều đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những biện pháp cưỡng chế, có bộ máy đặc biệt để cưỡng chế các hành vi xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp nói trên một cách kiên quyết và mạnh mẽ. Mỗi một ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam đều có tính cưỡng chế của nhà nước. Song tính cưỡng chế trong tố tụng hình sự vẫn là nghiêm khắc nhất. Vậy cưỡng chế trong tố tụng hình sự được hiểu như thế nào? Theo tác giả Nguyễn Vạn Nguyên và Phạm Thanh Bình: Những biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế cần thiết trong tố tụng hình sự, do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo và trong một số trường hợp được pháp luật quy định có thể áp dụng đối với cả những người chưa bị khởi tố (người bị bắt trong trường hợp quả tang hoặc trong trường hợp khẩn cấp) nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội, không để cho họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi khác gây cản trở cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án [35, tr.25]. Về nội dung, khái niệm trên cơ bản đã nêu đầy đủ nhưng vẫn chưa hoàn chỉnh; vì khi bắt người phạm tội quả tang không nhất thiết chỉ có Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án mà bất kỳ người nào trông thấy cũng có quyền bắt. Từ những phân tích trình bày nêu trên, các biện pháp ngăn chặn được hiểu một cách đầy đủ như sau: Các biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can, bị cáo và người chưa bị khởi tố về hình sự để kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, cũng như không cho họ có những hành động làm cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Các biện pháp ngăn chặn nếu được áp dụng đúng đắn sẽ có ý nghĩa rất lớn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, điều đó được thể hiện cụ thể như sau: 9
- - Áp dụng đúng đắn biện pháp ngăn chặn sẽ đảm bảo cho quá trình giải quyết vụ án hình sự một cách chính xác, khách quan, toàn diện không có sự oan sai đáng tiếc xảy ra. - Áp dụng các biện pháp ngăn chặn là đảm bảo sự tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Các quy định về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn đều nhằm đạt mục tiêu ngăn chặn và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, không phải vì thế mà cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng một cách tùy tiện, thiếu căn cứ mà đòi hỏi phải tiến hành đúng trình tự, thủ tục và thận trọng trong hoạt động này. - Việc áp dụng biện pháp ngăn chặn còn có tác dụng góp phần bảo vệ trật tự xã hội và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân và các mối quan hệ xã hội khác cần được bảo vệ. Đồng thời, trấn áp một cách kiên quyết tội phạm xảy ra để tất cả vì mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. 1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhà nước và pháp luật xuất hiện khi xã hội phát triển đến một trình độ nhất định. Pháp luật ra đời cùng nhà nước, là công cụ sắc bén để thực hiện quyền lực nhà nước, duy trì và bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Pháp luật được hiển là: Hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận thể hiện ý chí giai cấp thống trị, được nhà nước bảo đảm thực hiện kể cả bằng biện pháp cưỡng chế để điều chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì xã hội trong một trật tự có lợi cho giai cấp thống trị. Pháp luật XHCN Việt Nam là hệ thống các quy tắc xử sự thể hiện ý chí, lợi ích của nhân dân lao động, do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, có tính bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện trên cơ sở kết hợp giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế; thu hút sự tham gia tích cực của toàn xã hội và hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. 10
- Áp dụng pháp luật là một trong những hình thức quan trọng của việc thực hiện pháp luật. Đó chính là hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước có thẩm quyền tổ chức thực hiện pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi để các chủ thể quan hệ pháp luật thực hiện được quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình theo quy định của pháp luật. Thông qua hoạt động áp dụng pháp luật đảm bảo cho pháp luật được tôn trọng, thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất; các quyền của chủ thể được thực hiện và được bảo vệ trên thực tế; các hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm được xử lý nghiêm minh, kịp thời để bảo vệ các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Có thể nói, áp dụng pháp luật là hoạt động diễn ra hằng ngày trong các cơ quan nhà nước và chỉ do nhân viên nhà nước, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Tính chất tổ chức thực hiện quyền lực của Nhà nước của áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ hoạt động này chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền, nhân viên Nhà nước có thẩm quyền tiến hành, không theo ý chí của các chủ thể mà là theo quy định của pháp luật. Quyết định áp dụng quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý thi hành và được Nhà nước bảo đảm thi hành. Chính vì vậy, áp dụng pháp luật còn là một hình thức thực hiện quyền lực nhà nước trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý cho hành động thực tế của các chủ thể pháp luật. Các quy phạm pháp luật rất phong phú cho nên hình thức thực hiện pháp luật được tiến hành theo những hình thức khác nhau gồm: - Tuân thủ pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật tự kiềm chế, không tiến hành những hoạt động hay hành vi mà pháp luật ngăn cấm. - Thi hành pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể tích cực thực hiện nghĩa vụ của mình theo pháp luật quy định. 11
- - Sử dụng pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể tích cực chủ động thực hiện các quyền chủ thể của mình theo pháp luật quy định. - Áp dụng pháp luật (hiểu theo một cách khái quát) là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó Nhà nước dựa vào pháp luật để trao quyền cho các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các cá nhân để căn cứ vào các quy định pháp luật để ban hành các quyết định cá biệt làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ thể. Quan niệm áp dụng pháp luật như vừa nêu trên được thể hiện rất rõ trong đời sống xã hội: Chẳng hạn để ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì nhà nước đã trao quyền cho Cơ quan điều tra (CQĐT), Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình có quyền áp dụng các quy định của BLTTHS để ra một trong các lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam (ra văn bản áp dụng pháp luật hình sự) buộc bị can, bị cáo, người bị tình nghi thực hiện tội phạm phải chấm dứt hành vi của mình và phải chịu một hình thức cưỡng chế nhất định. Trong các hình thức thực hiện pháp luật, thì áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt, vì pháp luật ở đây được thực hiện bởi các chủ thể là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền do pháp luật quy định. Theo đó cán bộ, công chức thuộc cơ quan đó có thẩm quyền áp dụng khi thực hiện công vụ. Nếu tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình thức mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể tự thực hiện thì áp dụng pháp luật là hình thức luôn có sự tham gia của Nhà nước. Áp dụng pháp luật là hình thức rất quan trọng của thực hiện pháp luật. Trong đó pháp luật tác động vào cuộc sống, vào các quan hệ xã hội để đạt được hiệu quả cao nhất, các quy định của nó đều được thực hiện triệt để, bởi vì áp dụng pháp luật luôn có sự can thiệp của Nhà nước. Trong thực tế, nếu chỉ thông qua các hình thức thực hiện pháp luật như: Tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật, thì pháp luật có 12
- lúc không được thực hiện triệt để vì các chủ thể không tự giác thực hiện, bởi các hình thức này chỉ do các chủ thể pháp luật tự giác thực hiện mà không có sự bắt buộc thực hiện của Nhà nước. Nhưng áp dụng pháp luật chỉ được thực hiện trong các trường hợp sau đây: Thứ nhất, khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế bằng một chế tài thích hợp đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Chẳng hạn, để kịp thời gian ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hay gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì các cơ quan bảo vệ pháp luật như: Công an, Viện kiểm sát, Tòa án có quyền dựa vào các quy định của pháp luật Hình sự, Tố tụng hình sự để tiến hành bắt, tạm giữ, tạm giam người bị nghi thực hiện hành vi phạm tội, bị can, bị cáo để xử phạt theo pháp luật. Thứ hai, áp dụng pháp luật khi các quyền và nghĩa vụ của chủ thể không tự phát sinh nếu không có sự tác động của Nhà nước. Trong nhiều trường hợp các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân quy định trong Hiến pháp và các đạo luật phải thông qua quyết định cụ thể của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới phát sinh các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể đối với một cá nhân. Ví dụ: CQĐT ra quyết định tạm giữ, thì mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ. Thứ ba, áp dụng pháp luật khi giải quyết tranh chấp về quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham gia các quan hệ pháp luật tố tụng hình sự mà họ không tự giải quyết được. Ví dụ: Viện kiểm sát áp dụng các quy định của pháp luật để ra quyết định giải quyết khiếu nại về việc bắt, tạm giữ, tạm giam khi người bị bắt, tạm giữ, tạm giam có khiếu nại của Thủ trưởng CQĐT áp dụng việc bắt, tạm giữ, tạm giam không đúng. Thứ tư, áp dụng pháp luật trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải tham gia để kiểm tra, kiểm sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc cần xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của một sự kiện, một sự việc. Ví dụ: Viện kiểm sát ra quyết định phê chuẩn lệnh bắt bị can để tạm 13
- giam, thể hiện sự nhất trí của Viện kiểm sát đối với lệnh đó, nếu không có quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát thì lệnh bắt bị can để tạm giam không thực hiện được. Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm áp dụng pháp luật như sau: Áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật đặc thù, do cơ quan nhà nước, công chức nhà nước được trao thẩm quyền tiến hành theo một thủ tục do pháp luật quy định nhằm thực hiện các biện pháp cưỡng chế khi có hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm, khi phải giải quyết các tranh chấp về quyền của chủ thể và các nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể trong một quan hệ pháp luật nhất định, hoặc khi Nhà nước thấy cần thiết phải can thiệp, cần phải tham gia nhằm bảo đảm việc thực thi trên thực tế của các chủ thể trên các lĩnh vực của đời sống xã hội theo quy định của pháp luật. 1.1.3. Giai đoạn điều tra vụ án hình sự Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự thứ hai mà trong đó Cơ quan Điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và dưới sự kiểm sát của Viện kiểm sát tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án hình sự, phát hiện nhanh chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm tội để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ sở đó quyết định: Đình chỉ điều tra vụ án hình sự hoặc là; Chuyển toàn bộ các tài liệu của vụ án đó cho Viện kiểm sát kèm theo kết luận điều tra và đề nghị truy tố bị can. Với tính chất là một giai đoạn độc lập của tố tụng hình sự, giai đoạn điều tra vụ án hình sự có chức năng thực hiện các nhiệm vụ cụ thể nhằm áp dụng các biện pháp cần thiết do luật định để chứng minh việc thực hiện tội phạm và người phạm tội, xác định rõ những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đồng thời kiến nghị các cơ quan và tổ chức hữu quan áp dụng đầy đủ các 14
- biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm; Thời điểm của giai đoạn này được bắt đầu từ khi cơ quan (người) tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều tra và quyết định của Cơ quan Điều tra về việc đề nghị Viện kiểm sát truy tố bị can trước Tòa án hoặc đình chỉ vụ án hình sự tương ứng. Vai trò và ý nghĩa của giai đoạn này được thể hiện trên các bình diện chủ yếu như sau: - Một mặt, điều tra vụ án hình sự là chức năng quan trọng trong hoạt động tư pháp hình sự của cơ quan (người) tiến hành có thẩm quyền đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội và người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm thông qua các chứng cứ đã thu thập được, đồng thời cũng là một trong những phương tiện cơ bản để thực hiện tốt nguyên tắc không tránh khỏi trách nhiệm trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, tránh bỏ lọt tội phạm; - Mặt khác, điều tra vụ án hình sự cũng góp phần loại trừ một thái cực khác trong hoạt động tư pháp hình sự, ngăn chặn kịp thời việc thông qua quyết định khởi tố bị can một cách không thận trọng, thiếu chính xác và do vậy, có thể sẽ kéo một loạt hậu quả tiêu cực tiếp theo xảy ra trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự ở các giai đoạn tố tụng hình sự (như: Truy tố của Viện kiểm sát hoặc xét xử của Tòa án không khách quan, vô căn cứ và trái pháp luật, làm oan những người vô tội); - Và cuối cùng, điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự cơ bản và quan trọng để tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền và tự do của công dân trong các giai đoạn trước khi khởi tố của Viện kiểm sát và xét xử của Tòa án, cùng với các giai đoạn tố tụng hình sự khác góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm trong toàn xã hội. 1.1.4. Khái niệm áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm tội trong giai đoạn điều tra Áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với người chưa thành niên phạm 15