Luận văn Áp dụng án treo từ thực tiễn tỉnh Bình Phước

pdf 91 trang vuhoa 24/08/2022 9201
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Áp dụng án treo từ thực tiễn tỉnh Bình Phước", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_ap_dung_an_treo_tu_thuc_tien_tinh_binh_phuoc.pdf

Nội dung text: Luận văn Áp dụng án treo từ thực tiễn tỉnh Bình Phước

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI CHU NGỌC PHÚ ÁP DỤNG ÁN TREO TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH PHƯỚC LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ HÀ NỘI, 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI CHU NGỌC PHÚ ÁP DỤNG ÁN TREO TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH PHƯỚC Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGHIÊM XUÂN MINH HÀ NỘI, 2021
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả Chu Ngọc Phú
  4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG ÁN TREO 8 1.1. Nhận thức chung về áp dụng án treo 8 1.2. Quy định của pháp luật về áp dụng án treo 20 1.3. So sánh án treo với một số chế định khác 29 1.4. Chủ thể, quan hệ phối hợp trong áp dụng án treo 33 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH ÁN TREO TẠI CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC 37 2.1. Khái quát tình hình áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Bình Phước 37 2.2. Thực trạng áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Bình Phước giai đoạn 2016 – 2020 40 2.3. Nhận xét, đánh giá về nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế khi áp dụng án treo tại tỉnh Bình Phước 56 Chương 3: GIẢI PHÁP ÁP DỤNG ĐÚNG ÁN TREO TRONG THỰC TIỄN 63 3.1. Các yếu tố tác động đến hiệu quả áp dụng đúng án treo 63 3.2. Một số giải pháp góp phần áp dụng đúng án treo trong thực tiễn 67 KẾT LUẬN 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 79 PHỤ LỤC 84
  5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ADPL : Áp dụng pháp luật BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự HĐXX : Hội đồng xét xử VKS : Viện kiểm sát
  6. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Để công cuộc đấu tranh của các lực lượng có thẩm quyền với các tội phạm có hiệu quả, trên cơ sở nguyên tắc phân hóa rõ ràng về trách nhiệm hình sự, cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội, Bộ luật hình sự hiện hành quy định hệ thống hình phạt có tính phân hóa cao để áp dụng đối với từng loại tội phạm và đối với từng người phạm tội. Mục đích của việc Tòa án áp dụng hình phạt đối với người phạm tội bên cạnh việc trừng trị người phạm tội vì họ có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, giáo dục họ trở thành người có ích cho gia đình, xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống ngăn ngừa họ phạm tội mới. Tuy nhiên, để đạt được mục đích của hình phạt, bên cạnh việc áp dụng hình phạt - trong một số trường hợp nhất định sẽ đạt hiệu quả cao hơn nếu áp dụng biện pháp cưỡng chế hình sự khác, không buộc người phạm tội phải cách ly hoàn toàn khỏi gia đình, khỏi xã hội. Một trong các biện pháp khác đó được áp dụng trong thực tiễn là án treo. Phạt tù nhưng cho người phạm tội hưởng án treo là một chế định pháp lý độc lập, thể hiện quan điểm của Đảng, Nhà nước ta trong việc áp dụng pháp luật hình sự, đó là nghiêm minh nhưng nhân đạo, nghiêm trị nhưng khoan hồng, tạo điều kiện cho người phạm tội được giáo dục cải tạo tại gia đình, tại cộng đồng. Đây chính là tính ưu việt của chế định án treo. Chế định án treo được quy định trong hệ thống Luật hình sự của nước ta từ rất sớm, sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được Quốc hội ban hành thì đã có rất nhiều ý kiến khác nhau về việc có nên bỏ chế định án treo hay không? vì án treo và hình phạt cải tạo không giam giữ tương đối tương đồng, có nhiều điểm giống nhau. Mặc dù vậy, trải qua các lần sửa đổi bổ sung của Bộ luật hình sự thì chế định án treo không những không bị bỏ đi mà còn được giữ lại, bổ sung và ngày càng được hoàn thiện. Điều này khẳng định chế định án treo trong hệ thống Luật hình sự nước ta có một vị 1
  7. trí, vai trò hết sức quan trọng trong công tác đấu tranh và phòng chống đối với các loại tội phạm, án treo có tác dụng khuyến khích người bị kết án có thể tự học tập, lao động, cải tạo bản thân trở thành công dân có ích cho cộng đồng xã hội dưới sự giúp đỡ, giám sát, giáo dục của các cơ quan đoàn thể, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục, của cả gia đình và toàn xã hội. Chế định án treo đã thể hiện được vai trò của mình trong quá trình đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự bình yên cho toàn xã hội. Đặc biệt chế định án treo đã thể hiện rõ bản chất nhân đạo trong chính sách hình sự của Nhà nước ta, thể hiện sự khoan hồng và tính ưu việt của chính sách hình sự xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong hệ thống Tòa án ở nước ta nói chung và áp dụng chế định án treo ở Bình Phước nói riêng trong thời gian qua về cơ bản cho thấy: Tòa án các cấp phần lớn đều áp dụng tương đối chính xác pháp luật hình sự và đã đạt được những kết quả nhất định; các trường hợp được hưởng án treo phần lớn được áp dụng đúng pháp luật, có tính giáo dục, phòng ngừa cao. Tuy nhiên, vẫn còn có những hạn chế nhất định, chẳng hạn như việc vận dụng các quy định về điều kiện cho hưởng án treo còn chưa chính xác, đối tượng được áp dụng án treo trong nhiều trường hợp có sự nhầm lẫn. Từ những phân tích trên đây thì việc nghiên cứu một cách chuyên sâu và toàn diện về việc áp dụng chế định án treo tại địa bàn tỉnh Bình Phước là hết sức cần thiết góp phần hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật hình sự về chế định án treo và từ đó đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chế định án treo trên thực tế. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài "Áp dụng án treo từ thực tiễn tỉnh Bình Phước" để làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Án treo là một trong những chế định pháp lý hình sự có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn đối với hoạt động đấu tranh phòng ngừa và 2
  8. chống tội phạm trong xã hội. Do đó, chế định án treo không những sớm được thể chế hoá trong hệ thống các quy định của pháp luật hình sự thực định ở nước ta mà còn là vấn đề được các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý nói chung và khoa học luật hình sự nói riêng đặc biệt quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu. Có thể nói, trong những năm gần đây đã có rất nhiều công trình khoa học, các đề tài, các chuyên đề, các bài báo nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau đề cập nghiên cứu về án treo đã được công bố, cụ thể như sau: - Các bài viết liên quan đến án treo: + Bài viết: “Một số vấn đề về tổng hợp hình phạt tù với án treo” đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 9 năm 2012 của tác giả Đinh Văn Quế. + Bài viết “Án treo và thực tiễn” đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 14 năm 2013 của tác giả Đỗ Văn Chỉnh. + Bài viết: “Những vướng mắc của tổng hợp hình phạt tù có thời hạn với án treo trong thực tiễn xét xử hiện nay” đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 6 năm 2012 của tác giả Phạm Minh Tuyên. - Các luận án, luận văn thạc sĩ luật học đã bảo vệ thành công: + Luận án tiến sỹ luật học – Học viện khoa học xã hội: “Chế định án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn miền Trung và Tây Nguyên” của tác giả Nguyễn Văn Bường năm 2017. + Luận văn thạc sỹ luật học – Học viện khoa học xã hội: “Áp dụng án treo theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Bình” của Trần Quang Hiếu năm 2017. Các công trình khác: + Giáo trình:“Cơ chế quốc tế và khu vực về quyền con người” của Học viện khoa học xã hội, Nhà xuất bản khoa học xã hội năm 2014. + Sách chuyên khảo: “Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự Việt Nam” tác giả Hồ Sỹ Sơn của Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. 3
  9. Qua nghiên cứu tình hình liên quan đến đề tài án treo cho thấy: có rất nhiều các công trình khoa học ở các cấp độ khác nhau đã nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên nội dung của luận văn mà tác giả nghiên cứu có cách tiếp cạnh, phân tích và nghiên cứu theo hướng khác so với các luận văn nói trên, không nặng về phân tích và bình luận lý thuyết đơn thuần mà luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự nói chung và thực tiễn áp dụng án treo nói riêng trên địa bàn tỉnh Bình Phước, ngoài ra bản thân tác giả đã công tác nhiều năm trong ngành Toà án, trực tiếp xét xử, trực tiếp áp dụng án treo nên từ thực tiễn hoạt động xét xử đã phát hiện những vấn đề còn tồn tại, bất cập trong việc áp dụng các quy định về án treo, từ đó đặt ra mục tiêu nghiên cứu những bất cập đó. Đề tài luận văn còn nhằm mục đích tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về án treo, đi từ lịch sử ra đời của chế định cho đến án treo được quy định ra sao trong Luật hình sự Việt Nam hiện hành, tìm ra những nguyên nhân dẫn đến việc áp dụng án treo không đúng pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự trên toàn quốc nói chung và trên địa bàn tỉnh Bình Phước nói riêng, từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp khắc phục, hoàn thiện chế định án treo về mặt lý luận, đồng thời đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng án treo trong thực tiễn xét xử. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở quy định của pháp luật về án treo luận văn làm rõ việc áp dụng án treo của các cơ quan có thẩm quyền – trong đó chủ đạo là ngành Tòa án trong thực tiễn để tìm ra những khó khăn, hạn chế trong áp dụng án treo và đưa ra đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả việc áp dụng chế định này tại tỉnh Bình Phước nói riêng, cả nước nói chung. 4
  10. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt mục đích nghiên cứu đã đặt ra, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận liên quan đến án treo và áp dụng án treo. - Phân tích các quy định của pháp luật hình sự, từ đó làm rõ nội hàm của các quy định pháp luật hình sự về án treo và áp dụng án treo. - Phân tích, đánh giá số liệu cụ thể, đánh giá các vụ án thực tiễn áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Bình Phước, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó. - Đề xuất các giải pháp áp dụng đúng án treo trong thực tiễn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về áp dụng án treo; hoạt động áp dụng án treo của các cơ quan có thẩm quyền mà chủ đạo là ngành Tòa án trong quá trình xét xử các vụ án hình sự có người phạm tội được hưởng án treo theo quy định của pháp luật hình sự qua thực tiễn áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Từ đó nghiên cứu kiến nghị các giải pháp áp dụng đúng áp dụng án treo. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Để tài luận văn được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành khoa học luật hình sự và khoa học luật tố tụng hình sự về hoạt động áp dụng án treo của các cơ quan có thẩm quyền mà chủ đạo là ngành Tòa án trong quá trình xét xử các vụ án hình sự có người phạm tội được hưởng án treo theo quy định của pháp luật qua thực tiễn việc áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Bình Phước. - Về không gian: Khảo sát nghiên cứu những vấn đề về áp dụng án treo trên địa bàn tỉnh Bình Phước. -Về thời gian: số liệu nghiên cứu từ năm 2016 đến hết năm 2020. 5
  11. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1.Cơ sở lý luận Luận văn được tác giả nghiên cứu dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về những quy định của chính sách hình sự nói chung, về tội phạm và hình phạt cũng như những quy định của pháp luật về áp dụng án treo nói riêng phù hợp với chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 làm phương pháp luận nghiên cứu. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Bên cạnh việc sử dụng có sự kết hợp nhuần nhuyễn cơ sở lý luận nói trên, trong quá trình nghiên cứu về áp dụng án treo tại tỉnh Bình Phước, tác giả còn sử dụng có sự kết hợp đan xen và khoa học trong một tổng thể các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp thống kê; phương pháp so sánh; phương pháp kết hợp đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn. Đồng thời, luận văn còn sử dụng kết hợp đan xen một số phương pháp của các ngành khoa học khác như: phương pháp thống kê xã hội, phương pháp lôgic học. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về áp dụng án treo để giúp người đọc hiểu đầy đủ và đúng cũng như nhận thức sâu hơn những vấn đề lý luận về áp dụng án treo như: khái niệm, điều kiện, ý nghĩa của chế định án treo, lịch sử hình thành và phát triển của chế định án treo 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn có giá trị tham khảo đối với việc xây dựng những quan điểm về chính sách hình sự nói chung và pháp luật hình sự Việt Nam về án treo nói riêng cũng như việc áp dụng án treo trên thực tế. 6
  12. Kết quả nghiên cứu của luận văn còn có giá trị tham khảo đối với việc giảng dạy và học tập, nghiên cứu về chính sách hình sự, những quy định của pháp luật hình sự về án treo tại các cơ sở đào tạo Công an nhân dân, những cơ sở đào tạo cử nhân luật, thạc sỹ luật ở nước ta. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì luận văn gồm 03 chương sau: Chương 1. Những vấn đề lý luận về áp dụng án treo Chương 2. Thực tiễn áp dụng án treo tại các Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước Chương 3. Các giải pháp áp dụng đúng án treo trong thực tiễn 7
  13. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG ÁN TREO 1.1. Nhận thức chung về áp dụng án treo 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa án treo 1.1.1.1. Khái niệm án treo Theo quy định tại khoản 1 Điều 65 BLHS năm 2015 thì: “Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho người phạm tội được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.” [27, tr 45]. Có thể thấy Luật hình sự Việt Nam không đưa ra khái niệm nào liên quan về án treo. Chế định án treo từ khi mới ra đời trong Luật hình sự nước ta cho đến thời điểm được chính thức quy định tại Điều 44 BLHS năm 1985 là bước tiến dài và đã có những quan điểm, quan niệm rất khác nhau, đôi lúc án treo theo quy định của Luật hình sự được hiểu là một biện pháp “tạm đình chỉ việc thi hành án” (tại Điều 10 sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946) hoặc là một biện pháp hoãn hình phạt có điều kiện cũng có khi: Án treo được hiểu là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện (theo Nghị quyết số 01/1990/NQ-HĐTP TANDTC). Hay theo Công văn số 36/NCPL ngày 30/04/1992 của TANDTC giải thích về chế định án treo như sau: “Pháp luật hình sự của nước ta từ trước tới nay chưa bao giờ coi “án treo” là một loại hình phạt. Trong hệ thống các văn bản pháp luật và trong tất cả các đạo luật hình sự của nước ta đã và đang ban hành từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay có quy định về tội phạm và hình phạt thì đều không quy định loại hình phạt “án treo”. Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua ngày 27/06/1985 và 8
  14. có hiệu lực từ 01/01/1986 tại Chương V quy định về hình phạt và tại Điều 20 về các hình phạt quy định có 7 loại hình phạt chính lần lượt là “cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo không giam giữ; cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội; tù có thời hạn; tù chung thân; tử hình”. Tại Điều 16 BLHS năm 1985 cũng quy định về 7 loại hình phạt bổ sung cụ thể như sau: “cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tước danh hiệu quân nhân; tịch thu tài sản, phạt tiền” (đối với trường hợp không áp dụng là hình phạt chính). Như vậy, trong BLHS năm 1985 có 7 hình phạt chính và 7 hình phạt bổ sung nhưng hoàn toàn không có “án treo”. Điều này có nghĩa là “án treo” không phải là là một loại hình phạt. Tại Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 18/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã đưa ra khái niệm án treo sau đây: “Án treo là miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, tức là căn cứ vào nhân thân của người bị kết án và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Toà án sẽ miễn cho người bị kết án không phải chấp hành hình phạt nếu trong thời gian thử thách, người đó không phạm tội mới”. Trên thực tế, có không ít trường hợp do không nắm vững nội dung, nội hàm của án treo, chưa hiểu một cách đầy đủ về án treo nên đã có người hiểu sai rằng án treo là một loại hình phạt, thậm chí còn cho rằng án treo là một loại tù treo, gọi sai án treo là “tù treo” và cho là “tù treo” nhẹ hơn “tù giam”. Chỉ có “án treo” với nghĩa là “miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện”, chứ không có “tù treo” với tính chất là một loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù”. Ngoài quan niệm về án treo được hiểu là một biện pháp “tạm đình chỉ việc thi hành án” (tại Điều 10 sắc lệnh số 21/SL ngày 14/02/1946) hoặc là một biện pháp “hoãn hình có điều kiện” (Thông tư số 2308/NCPL ngày 01/12/1961 của TANDTC) thì chưa có tác giả nào đưa ra khái niệm về án treo khác hoặc trái với sự giải thích, hướng dẫn của TANDTC tại Nghị quyết số 17 01/1990/NQ-HĐTP TANDTC mà đều thống nhất “án treo là một biện 9
  15. pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện ”. Tác giả Đinh Văn Quế đã định nghĩa về án treo “là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, áp dụng đối với người bị phạt tù không quá ba năm tù, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội cũng như các tình tiết giảm nhẹ TNHS, nếu xét thấy không cần bắt người phạm tội phải chấp hành hình phạt tù”. [24] Hay PGS.TSKH Lê Văn Cảm lại cho rằng: “án treo được hiểu là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù kèm theo một thời gian thử thách nhất định đối với những người bị coi là có lỗi trong việc thực hiện tội phạm khi có đủ căn cứ nhất định và những điều kiện cụ thể do pháp luật hình sự quy định”. Để áp dụng thống nhất chế định án treo, Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã ban hành Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP TANDTC ngày 15/05/2018 hướng dẫn cụ thể, chi tiết về áp dụng Điều 65 của BLHS liên quan đến án treo. Theo đó, ngoài điều kiện đầu tiên là người phạm tội bị xử phạt tù không quá 03 năm thì người được hưởng án treo phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS. Nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS theo quy định của BLHS được hướng dẫn là phải có từ 02 tình tiết giảm nhẹ TNHS trở lên và không có tình tiết tăng nặng TNHS, trong đó có ít nhất là một tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015. Trường hợp người phạm tội vừa có tình tiết giảm nhẹ TNHS vừa có tình tiết tăng nặng, thì tình tiết giảm nhẹ TNHS phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ 02 tình tiết trở lên trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS năm 2015. Ngoài ra người phạm tội phải có nhân thân tốt, có nơi cư trú (thường trú hoặc tạm trú) rõ ràng để các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục thì mới có thể được Tòa án xem xét áp dụng án treo. Như vậy: Án treo được hiểu là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện án treo thể hiện tính nhân đạo của luật hình sự Việt Nam, có tác dụng khuyến khích người bị kết án tự tu dưỡng và lao động tại cộng đồng với sự giúp đỡ tích cực của cộng đồng xã hội cũng như gia đình đồng thời 10
  16. cảnh báo họ nếu phạm tội mới trong thời gian thử thách thì buộc phải chấp hành hình phạt tù giam đối với bản án đã tuyên”. Từ các quan điểm trên về án treo và nội dung về án treo quy định tại khoản 1 Điều 65 BLHS 2015, có thể đưa ra khái niệm về án treo như sau: Án treo là một chế định pháp lý hình sự đặc biệt, được gọi là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, do HĐXX nhân danh Nhà nước quyết định trên cơ sở căn cứ vào mức hình phạt tù đã tuyên đối với người phạm tội không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì HĐXX cho người đó được hưởng án treo, không buộc phải chấp hành hình phạt tại trại giam đồng thời ấn định thời gian thử thách từ một đến năm năm. Như vậy, án treo có tác dụng khuyến khích người bị kết án tự lao động cải tạo tại cộng đồng để hoàn lương, với sự giám sát, giáo dục, giúp đỡ tích cực của chính quyền địa phương nơi người phạm tội cư trú hoặc nơi người phạm tội công tác hoặc sự giúp đỡ từ gia đình, người thân, bạn bè và xã hội. Án treo là một trong những biểu hiện cụ thể của chính sách hình sự nước ta với phương châm “trừng trị kết hợp với giáo dục” và thể hiện tính nhân đạo XHCN trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta. Áp dụng đúng đắn các quy định về án treo sẽ có tác dụng tốt là không buộc người bị kết án phải cách ly khỏi đời sống xã hội mà cũng đạt được mục đích giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, hoà nhập với cộng đồng, giác ngộ được ý thức chấp hành chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, tuân thủ quy tắc cuộc sống XHCN. 1.1.1.2. Đặc điểm của án treo Theo Nghị định 02/2018/NĐ-CP ngày 15/05/2018 của Chính Phủ hướng dẫn thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo, thì việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo nhằm tạo điều kiện cho người được hưởng án treo học tập, làm ăn, sinh sống cũng như chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của mình ngay trong một môi trường xã hội bình thường, dưới sự quản lý, giám sát, 11
  17. giáo dục của các cơ quan, tổ chức, đơn vị quân đội, cơ sở giáo dục, đào tạo hoặc UBND xã, phường, thị trấn nơi người chấp hành án treo làm việc, công tác, học tập hoặc cư trú và gia đình của người đó. Người được hưởng án treo phải chịu sự thử thách dưới sự quản lý, giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức giám sát, giáo dục và gia đình của người đó trong thời gian thử thách. Với mục đích chung của án treo là thể hiện sự khoan hồng của pháp luật thì việc thi hành án treo vẫn có những đặc điểm riêng, cụ thể: Thứ nhất: Áp dụng án treo trong xét xử VAHS là hoạt động tố tụng hình sự trong đó Toà án nhân danh quyền lực Nhà nước quyết định hình phạt đối với tội phạm. Đây là quá trình TAND thông qua Hội đồng xét xử cá biệt hoá các quy phạm pháp luật hình sự đối với một hay nhiều hành vi phạm tội của người phạm tội trong một vụ án hình sự để Hội đồng xét xử quyết định hình phạt, xem xét có nên hay không nên cho người bị kết án (phạt tù) được hưởng án treo. Thứ hai, áp dụng án treo được quyết định trực tiếp tại phiên toà. Theo quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự, hoạt động xét xử của Toà án được tiến hành trực tiếp tại phiên toà hình sự; trên cơ sở đó áp dụng án treo thực chất là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của Toà án phải được quyết định ngay tại phiên toà. Qua đó thể hiện bản chất của Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là nhà nước dân chủ nhân dân thông qua nhiều hoạt động khác nhau trong đó có hoạt động xét xử Toà án nhân dân, bởi lẽ: Hoạt động xét xử của Tòa án thông qua các phiên toà trong đó có phiên tòa hình sự không chỉ là nơi thể hiện sự tôn nghiêm của pháp luật, mà còn là nơi quần chúng nhân dân, các cơ quan hữu quan như báo chí, đài phát thanh truyền hình trực tiếp chứng kiến các quyền, nghĩa vụ của bị cáo, của những người tham gia tố tụng tại phiên toà, của Nhà nước được bảo đảm thực hiện, cũng như được pháp luật bảo vệ. Tại TA, mọi diễn biến, quá trình, bản chất của vụ 12
  18. án sẽ được TA thẩm vấn công khai trừ một số trường hợp xét xử kín theo quy định của BLTTHS nhưng bản án cũng phải công bố công khai. Thứ ba, hoạt động áp dụng án treo trong thực tế phải bảo đảm tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc cơ bản theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự như quá trình Hội đồng xét xử quyết định áp dụng án treo phải tuân thủ các nguyên tắc: Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc xét xử công khai, nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật, nguyên tắc TA xét xử tập thể và quyết định theo đa số, nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia, nguyên tắc hai cấp xét xử, Tất cả những nguyên tắc này nhằm bảo đảm sự chính xác, khách quan, công bằng, vô tư khi quyết định hình phạt và cho người phạm tội hưởng án treo. Thứ tư, án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, không phải là một loại hình phạt vì BLHS quy định không có hình phạt tù treo. Trong các văn bản pháp luật hình sự của nước ta đã ban hành từ sau Cách mạng tháng 8 đến nay có quy định về tội phạm và hình phạt thì đều không có văn bản pháp luật nào quy định loại hình phạt là án treo. Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành quy định hệ thống hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung, trong đó có bảy hình phạt chính là tử hình, tù chung thân, tù có thời hạn, trục xuất, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, cảnh cáo và năm hình phạt bổ sung là: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân, quản chế, cấm cư trú và tịch thu tài sản còn án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù khi người phạm tội có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành. Trong thực tế do không nắm vững quy định của pháp luật cũng như hiểu đúng tính chất của chế định của án treo nên đã có người hiểu sai rằng án treo là một loại hình phạt thậm chí còn gọi sai là tù treo và cho là tù treo nhẹ hơn tù giam. Ở đây cần hiểu rõ: Tù giam, tù treo là những thuật ngữ không 13
  19. chính xác về mặt pháp lý. Chỉ có hình phạt tù (bao gồm tù có thời hạn và tù chung thân) còn giam là việc thi hành hình phạt tù. Chỉ có án treo với nghĩa là miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, chứ không có tù treo với tính chất là một loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù. 1.1.1.3. Ý nghĩa của án treo Án treo là một chế định pháp lý hình sự thể hiện rất rõ ràng tính chất nhân đạo trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Với phương châm của án treo là giáo dục kết hợp với khoan hồng, án treo không buộc người phạm tội bị kết án tù phải cách ly khỏi xã hội một khoảng thời gian nhất định mà tạo điều kiện cho họ được cải tạo trong môi trường cùng cộng đồng xã hội, họ vẫn được học tập, làm ăn, sinh sống và chứng tỏ sự hối cải, hoàn lương của mình ngay trong môi trường xã hội một cách bình thường dưới sự theo dõi, giám sát, giáo dục của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Án treo có một số ý nghĩa sau đây: - Ý nghĩa về mặt xã hội Xét về mặt xã hội: Chế định án treo ra đời là sự phát triển tất yếu của quá trình phát triển và biến đổi của xã hội, là nhu cầu về tự do của cá nhân. Do đó, chế định án treo có ý nghĩa vô cùng to lớn trong đời sống xã hội, phản ánh sự mong mỏi được TA nhân danh Nhà nước khoan hồng, nhân đạo khi con người lỡ lầm phạm tội gây ra hậu quả không lớn cho xã hội. Chế định án treo bảo đảm cho sự công bằng trong xã hội nói chung cũng như trong tố tụng hình sự nói riêng. Một người phạm tội nào đó mà hành vi phạm tội của họ đáng bị phạt tù nhưng không cần cách ly họ khỏi xã hội vẫn đảm bảo được sự cải tạo của họ thì TA nhân danh Nhà nước cho hưởng lượng khoan hồng của pháp luật, cho họ chấp hành hình phạt tại cộng đồng, tức là quyết định có cho người đó hưởng án treo. Đó là lẽ công bằng của xã hội và cũng là sự công bằng của pháp luật hình sự. 14
  20. Xét phương diện triết học: Mối quan hệ giữa pháp luật về án treo và các quan hệ xã hội khác nói chung là quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng, hai mối quan hệ này biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động này thể hiện theo hai hướng: Tác động tích cực thì thúc đẩy xã hội phát triển, áp dụng chế định án treo trở thành một giá trị nhân đạo của cuộc sống, có ý nghĩa đối với người phạm tội và cộng đồng xã hội nói chung ngược lại tác động tiêu cực sẽ làm giảm giá trị nhân đạo của án treo. - Ý nghĩa về mặt kinh tế Hiện nay ở Việt Nam, Bộ Công an đang quản lý 54 trại giam với hơn 130 nghìn phạm nhân trong đó có 115 nghìn phạm nhân nam và 15 nghìn phạm nhân nữ. Kinh phí hàng năm để duy trì hoạt động của các trại giam và phạm nhân là vô cùng to lớn. Cụ thể: Văn bản hợp nhất số 05/VBHN-BCA ngày 16 tháng 12 năm 2015 của Bộ Công an quy định về tổ chức quản lý phạm nhân và chế độ ăn, mặc, ở, sinh hoạt, chăm sóc y tế đối với phạm nhân quy định: Phạm nhân được Nhà nước bảo đảm tiêu chuẩn định lượng mỗi tháng: 17kg gạo tẻ thường; 0,7kg thịt, 0,8kg cá; 0,5 kg đường loại trung bình; 01kg muối; 15kg rau xanh; 0,75 lít nước mắm; chất đốt tương đương 17kg củi hoặc 15 kg than. Đối với phạm nhân lao động nặng nhọc, độc hại theo quy định của pháp luật, định lượng có thể được tăng thêm 15% so với tiêu chuẩn định lượng nêu trên Ngoài ra, án treo còn tiết kiệm được rất nhiều các chi phí về trang bị cơ sở vật chất phục vụ công tác cải tạo, giam giữ; chi phí cho các nhu cầu tự nhiên của phạm nhân như ăn, mặc, sinh hoạt chi phí quản lý và các chi phí khác. Như vậy, với việc người phạm tội được hưởng án treo sẽ tiết kiệm cho ngân sách nhà nước số tiền không hề nhỏ. Chính vì vậy, việc cho người phạm tội được hưởng án treo đem lại lợi ích tài chính to lớn cho mỗi quốc gia không chỉ đối với Việt Nam mà có nhiều nước trên thế giới hiện nay đã, đang và có xu hướng quy định và tăng cường áp dụng án treo. 15
  21. Bên cạnh đó, người bị kết án không bị buộc phải cải tạo tại các trại tạm giam, trại giam không chỉ làm giảm bớt áp lực cho các cơ sở giam giữ, quản lý nhà tù; mà chính bản thân người bị kết án còn có điều kiện thuận lợi để học tập, làm ăn, lao động tạo ra của cải vật chất cho bản thân họ và cho xã hội dưới sự giám sát của các cơ quan có thẩm quyền và cộng đồng xã hội. Tóm lại: Việc quy định về chế định án treo trong Luật hình sự vừa đem lại lợi ích kinh tế cho bản thân người phạm tội, cho ngân sách nhà nước đồng thời cũng đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc nhân đạo trong chính sách hình sự của nước ta. Mặc dù vậy, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là không vì kinh tế mà cho bị cáo hưởng án treo một cách tràn lan mà chỉ cho người phạm tội được hưởng án treo khi có đủ căn cứ theo quy định của pháp luật. - Ý nghĩa về mặt nhân đạo Nguyên tắc nhân đạo là nguyên tắc cơ bản không chỉ của BLHS mà của nhiều ngành luật khác. Mục đích khi quy định nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự là nhằm đảm bảo những lợi ích tối thiểu nhất định của con người, bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về danh dự, nhân phẩm, sức khỏe và tính mạng. Nguyên tắc nhân đạo chính là việc thể chế hóa các quan điểm của nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là vị tha và bao dung coi giáo dục thuyết phục nhân cách trong con người là trọng tậm, chủ yếu. Công dân Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam. Dù phạm tội thì họ vẫn là công dân Việt Nam, vẫn là một con người cụ thể, một thành viên của xã hội. Vì vậy, khi xem xét hành vi phạm tội của họ, Hội đồng xét xử luôn xem xét đến nhiều khía cạnh khác nhau như độ tuổi, tình trạng sức khỏe, tình trạng bản thân, các yếu tố nhân thân khi phạm tội như mang thai, hoàn cảnh gia đình có phải là lao động chính không? Mắc bệnh hiểm nghèo hay có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn hay không để xác định mức hình phạt phù hợp, điều đó xuất phát từ đạo đức, truyền thống dân tộc Việt Nam và được thể hiện rõ trong nguyên tắc nhân đạo XHCN của Luật Hình sự Việt Nam. 16