Luận văn Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự ở Việt Nam hiện nay

pdf 84 trang vuhoa 23/08/2022 9980
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_van_ap_dung_an_le_trong_giai_quyet_cac_tranh_chap_dan_s.pdf

Nội dung text: Luận văn Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự ở Việt Nam hiện nay

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHÙNG VĂN VIỆT ÁP DỤNG ÁN LỆ TRONG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật Kinh Tế Mã số : 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN AM HIỂU Hà Nội, 2017
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi trên cơ sở định hướng của giảng viên hướng dẫn. Tôi xin chịu trách nhiệm mặt pháp lý về nội dung của công trình. Tên tác giả PHÙNG VĂN VIỆT
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ÁN LỆ 7 1.1. Khái niệm và đặc điểm án lệ 7 1.2. Lịch sử ra đời và phát triển của án lệ 24 1.3. Án lệ và nguyên tắc pháp luật ở một số nước 25 1.4. Áp dụng án lệ trong giải quyết tranh chấp dân sự 37 1.5. Án lệ trong lịch sử pháp luật Việt Nam 43 Chương 2: ÁP DỤNG ÁN LỆ TRONG GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤP DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 49 2.1. Án lệ theo quyết định của pháp luật Việt Nam 49 2.2. Án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam 62 KẾT LUẬN 78 TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Án lệ được biết đến từ rất sớm trong lịch sử tố tụng, tư pháp của các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Trong kinh thánh thì ngọn cờ công bằng, bình đẳng, bác ái luôn là hàng đầu và trong đó cái công bằng là mong muốn, mục tiêu, động lực cho từng cá nhân và cho cộng đồng nhỏ tới cộng đồng lớn, suy rộng ra cho các quốc gia, các vùng lãnh thổ. Trong kinh Phật giáo Nguyên thuỷ đã có định hướng về xây dựng xã hội thuần lương thiện thông qua các lời răn dạy về đạo đức. Cùng với đó là những quy tắc giúp cho con người có lối sống đúng đắn cho chính mình, cách cư xử sao cho chuẩn mực nhất khi cư xử với cá nhân và xã hội. Quan điểm nền tảng là tất cả mọi người đều được công bằng trước sự giáo dục của Phật giáo dựa trên nhiều phương diện. Nhân loại đã trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hội và sự phán xét công bằng luôn là tiêu điểm cho các kết cục của những xung đột lớn nhỏ trong xã hội đó. Nhu cầu được xét xử như nhau ở những vụ án, vụ việc như nhau là trọng tâm và cũng là kết quả sau cùng của sự công bằng đó. Trong bình diện đối xử, đối xử công bằng cũng là một nền tảng vững chắc cho các tục lệ ra đời như là văn hóa của con người. Trong các giai đoạn tiến bộ của xã hội loài người thì việc ra đời các bộ luật như Luật La Mã cổ đại, bộ luật Hammurabi, hay ở việt nam chúng ta như Bộ luật Hồng Đức cũng là nền tảng cho một yêu cầu xét xử công bằng. Việc áp dụng án lệ chính là những người trong những vụ án tương tự nhau sẽ đảm bảo được xét xử như nhau. Khi cuộc sống của loài người không ngừng tiến bộ, các sản phẩm về giá trị cuộc sống, giá trị tinh thần đó là luật cho cuộc sống, cho xã hội đó cũng tiến bộ theo. Việc áp dụng án lệ đã đưa số đông công chúng có thể hiểu hơn về pháp luật và có thể tự đánh giá cho các phán quyết của mình đối với các vụ án mà mình biết mình quan tâm. Khi vai trò của chính quyền, Tòa án ngày càng giảm trong xã hội dân sự, xã hội dân chủ thì vai trò của án lệ sẽ được nâng cao để nó như bàn tay vô hình cùng với luật thực định điều chỉnh xã hội vận hành cho đạt tới sự tốt đẹp mong muốn; Việt Nam đứng trước thời cơ 1
  5. và đòi hỏi cao của sự phát triển và hội nhập vào đời sống kinh tế xã hội thế giới nên tiếp thu, xây dựng và phát triển án lệ là tất yếu. Tuyên bố Bắc Kinh năm 1995 của Chánh án Toà án tối cao 20 quốc gia khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (trong đó có Việt Nam) đã nên cơ quan tư pháp là tổ chức mang giá trị cao nhất của xã hội và mọi người đề có quyền được xét xử công khai và công bằng bởi một toà án độc lập có thẩm quyền, khách quan và được thành lập theo pháp luật. Cam kết mục tiêu tư pháp là thúc đẩy việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người trong phạm vi chức năng tư pháp cho phép, áp dụng pháp luật một cách công bằng, khách quan vô tư giữa các cá nhân với nhau và giữa cá nhân với Nhà nước. Hiến pháp năm 2013 đã nêu cụ thể tại điều 12: “Việt Nam cam kết thực hiện các cam kết quốc tế nếu không trái với lợi ích quốc gia, dân tộc”. Từ thượng tầng kiến trúc của hệ thống pháp luật việt nam, các nhà hoạch định chính sách đã có sự chủ động cho đất nước ta hội nhập vào đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới thì những quan điểm pháp luật tiến bộ của thế giới sẽ được áp dụng như những tinh hoa của xã hội văn minh nhân loại dành cho Việt Nam cũng như các nước phát triển. Nghị quyết 48/NQ-TW và Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp đã mở đường cho việc xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật cũng như việc đổi mới quy trình, cách thức cho hoạt động của việc thực thi quyền tư pháp tại Việt Nam. Từ “Án Lệ’ lần đầu tiên được bộ Chính Trị đề cập trong nghị quyết 48-NQ/TW về: “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”. Trong đó nêu cụ thể nội dung là: “Nghiên cứu về khả năng khai thác và sử dụng án lệ, tập quán (kể cả tập quán, thông lệ thương mại quốc tế) và quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp, góp phần bổ sung và hoàn thiện pháp luật”. Nội dung Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị nêu: “Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm”. Hiến pháp năm 2013 tại điều 104 khoản 3 quy định: “Tòa án nhân dân tối cao thực hiện việc tổng kết thực tiễn xét xử, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật 2
  6. trong xét xử”. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 nêu: “Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án quyết định pháp luật có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu và áp dụng trong xét xử”. Như vậy, án lệ đã được Quốc Hội của chúng ta thừa nhận. Thế nào là án lệ, nó vận hành như thế nào trong xã hội Việt Nam?khái niệm, bản chất, cách thức áp dụng nó như thế nào? Tại nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28 tháng 10 năm 2015 Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành nghị quyết về án lệ. Đây là lần đầu tiên Việt Nam công nhận và xây dựng cho riêng mình một quy trình tuyển chọn và áp dụng án lệ. Việc tuyển chọn và áp dụng án lệ của Việt nam có nhiều điểm tương đồng với thế giới nhưng cũng có nhiều khác biệt; Khác biệt từ việc xây dựng án lệ được tuyển chọn bởi Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Khác biệt từ việc áp dụng án lệ là yêu cầu trước tiên đối với thẩm phán xét xử các loại án; Khác biệt từ ý niệm pháp luật Việt Nam là hệ thống dân luật thành văn chịu ảnh hưởng nhiều của truyền thống pháp luật Xô Viết không coi án lệ là nguồn của luật, đa phần người dân chưa hiểu án lệ là gì và việc nhận thức về án lệ chưa nhiều; Khác với hệ thống dân luật thành văn của các nước tiên tiến có hệ thống pháp luật tiên tiến ở Châu Âu như Cộng hòa Pháp, Cộng hòa liên bang Đức. Thói quen của các nhà làm luật và áp dụng luật là tìm các quy phạm pháp luật thực định rõ ràng trong các văn bản quy phạm pháp luật để áp dụng cho các tình huống pháp lý cần xem xét. Các chương trình giảng dạy đối với các lĩnh vực pháp luật chuyên ngành cũng xoay quanh việc áp dụng các quy định pháp luật thực định để giải quyết các vụ án, các tình huống pháp lý phát sinh. Tòa án Việt Nam hiện nay đã mở rộng cửa đối với tất cả các bản án để có thể trở thành án lệ, bản án nào đạt tiêu chí đã đặt ra sẽ có thể được xem xét công nhận là án lệ theo một trình tự thủ tục đặc biệt riêng có về án lệ. 3
  7. Cách thức áp dụng án lệ như thế nào, nếu bản án đã áp dụng án lệ đó sau đó lại bị Toà án cấp trên hủy thì án lệ đó có ảnh hưởng không, có bị đưa ra khỏi án lệ không. Thủ tục thôi không công nhận bản án đó là án lệ được thực hiện như thế nào. Các quốc gia khác trên thế giới thì khi được công nhận là án lệ thì sức sống của án lệ đó được bao lâu. Khi án lệ là nguồn của luật thì việc pháp điển hóa pháp luật cho Toàn dân áp dụng như thế nào để phổ biến rộng rãi pháp luật cho toàn thể xã hội. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nhu cầu nghiên cứu tìm hiểu và áp dụng án lệ cho thực tiễn xét xử là rất bức thiết khi Toà án nhân dân tối cao đã công bố 10 án lệ trên cổng thông tin điện tử của mình. Trước nhu cầu từ thực tiễn về việc đưa án lệ áp dụng cho việc xét xử của các Toà án nhân dân. Từ thực tiễn mới về việc áp dụng án lệ tại Việt Nam đã mở ra hướng nghiên cứu cho đề tài “áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự ở Việt Nam hiện nay”. Nghiên cứu về án lệ gần đây đã được đẩy mạnh, tiêu biểu như Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Toà án nhân dân tối cao năm 2012 là “Triển khai án lệ vào công tác xét xử của Toà án Việt Nam”; Toà án nhân dân tối cao có thực hiện nghiên cứu chung Việt – Nhật về việc phát triển án lệ tại Việt Nam, công trình xuất bản năm 2008 của Nhà xuất bản Thanh niên; cùng với đó là rất nhiều công trình khoa học, hội thảo khoa học và những bài tham luận khoa học của các học giả trong và ngoài nước về án lệ của Việt Nam đã được công bố. Mới đây, Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã công bố 10 án lệ như là một thành quả bước đầu đáng khích lệ. Đó cũng là chủ đề cho nhiều cuộc tranh luận sôi nổi của các học giả, các nhà nghiên cứu và những luật gia, những thẩm phán đang trực tiếp giải quyết các loại án tại Toà án nhân dân. Ở đây, tác giả muốn nghiên cứu, viết về áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự ở Việt Nam hiện nay nên không có sự trùng lặp với các đề tài khác. 4
  8. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu thực tiễn áp dụng án lệ trong giải quyết vụ án dân sự của Việt Nam qua tham khảo một số quốc gia tiêu biểu của truyền thống dân luật như Anh, Mỹ và những quốc gia có truyền thống pháp luật dân sự như Pháp, Đức, Nhật Bản. Từ đó có cái nhìn, quan điểm về khái niệm và thực tiễn áp dụng của án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Định danh cụ thể khái niệm án lệ, nguyên tắc áp dụng án lệ, đặc điểm của án lệ, sự phát triển và ý nghĩa của việc áp dụng án lệ trong quá trình xét xử của Toà án một số quốc gia trên thế giới. Tìm hiểu thực tế của các nước trong việc áp dụng án lệ giải quyết các vụ án dân sự từ những nước tiêu biểu sử dụng án lệ như Anh, Mỹ và những quốc gia có truyền thống pháp luật dân sự như Pháp, Đức, Nhật Bản. Tìm hiểu lịch sử hình thành án lệ ở Việt Nam, quan điểm của Nhà nước về án lệ, thực tế vai trò hiện nay của án lệ trong hệ thống pháp luật Việt Nam, những đặc điểm cơ bản của việc áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự từ khi án lệ chính thức được công nhận và những kiến nghị cho việc áp dụng. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn khoa học này được tác giả nghiên cứu dựa trên quan điểm của phép duy vật biện chứng và nền tảng tư duy của chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách pháp luật của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu cho tới hoàn thiện đề tài tác giả có sử dụng các phương pháp nghiên cứu logic pháp lý, hệ thống hoá, phân tích, tổng hợp và sử dụng phương pháp so sánh trong pháp luật. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn nghiên cứu chú trọng vào cách thức, thực tiễn áp dụng án lệ của một số quốc gia đại diện cho hệ thống thông luật (Anh, Mỹ) và hệ thống dân luật (Pháp, Đức, Nhật Bản) và thực trạng của việc án dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự tại Việt Nam. 5
  9. 7. Cơ cấu của luận văn Luận văn bao gồm ngoài phần mở đầu, phần kết luận, nội dung danh mục tài liệu tham khảo thì cấu trúc của luận văn bao gồm 2 chương, đó là: Chương 1. Một số vấn đề chung về án lệ Chương 2. Áp dụng án lệ trong giải quyết các tranh chấp dân sự ở Việt Nam hiện nay và một số kiến nghị 6
  10. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ÁN LỆ 1.1. Khái niệm và đặc điểm án lệ 1.1.1. Khái niệm Khái niệm về án lệ theo nghĩa truyền thống được hình thành ở nước Anh với các quan điểm tiêu biểu của nhà tư tưởng Blackstone và Coke mà trọng yếu là trả lời câu hỏi vì sao thẩm phán được quyền tạo ra luật. Ông Blackstone lý giải là thẩm phán có nhiều kinh nghiệm và thông thái nên thẩm phán tạo ra luật là hợp lẽ. Ông Coke nhấn mạnh sự hợp lý là ưu điểm bao trùm của án lệ. Đây là một trường phái chúng ta hay gọi là pháp luật thực chứng mà điều hiển nhiên là thẩm phán có quyền giải thích pháp luật khi họ tiến hành xét xử ở bất kể hệ thống pháp luật nào. Án lệ được hiểu là bản án đã tuyên hoặc sự giải thích, áp dụng pháp luật được coi như tiền lệ làm cơ sở để các thẩm phán có thể áp dụng trong các trường hợp tương tự. Theo từ điển Black’s Law thì án lệ được nêu là: “Án lệ là việc làm luật của Tòa án khi công nhận và áp dụng các quá trình xét xử; vụ việc đã được giải quyết làm cơ sở để đưa ra phán quyết cho những trường hợp có tình tiết hoặc vấn đề tương tự sau này”[21, tr.1059]. Qua đó ta thấy những đặc điểm cơ bản của án lệ như sau: Thứ nhất, án lệ có được bởi Tòa án tạo ra khi xét xử nên nguồn luật án lệ cũng được gọi là luật có từ vụ việc (“case law”) hay luật do thẩm phán tạo ra (“judge make law” ”[5]. Thứ hai, án lệ khi hình thành phải chứa đựng trong nó tính mới. Vụ việc được giải quyết trong án lệ đó phải liên quan đến vấn đề pháp lý trước đó chưa từng được nêu thì khi Tòa án đó giải quyết mới tạo ra án lệ khi giải quyết. Thứ ba, yếu tố tương tự là nền tảng để xây dựng án lệ, vận hành án lệ. Khi thẩm phán giải quyết vụ việc thì phải đánh giá các lý lẽ tương tự, qua đó quyết định áp dụng hoặc không áp dụng lý lẽ trong bản án trước để giải quyết vụ việc hiện tại họ đang xem xét. 7
  11. Theo các học giả của hệ thống pháp luật Châu âu lục địa thì án lệ không có giá trị cao như luật thành văn. Họ cho rằng các nguyên tắc, giải pháp, lý lẽ và lẽ phải mà rút ra từ án lệ không có giá trị ngang bằng như luật thành văn. Vì các sự việc luôn khác nhau nên vụ việc luôn mới thì pháp luật cần có cách thích ứng cho phù hợp. Theo từ điển Black’s Law đã giải nghĩa thì án lệ được hiểu theo hai nghĩa như sau: “Một là sự làm luật bởi Toà án trong việc nhận thức và áp dụng những quy định mới trong khi thi hành công lý. Hai là một vụ việc đã được quyết định mà cung cấp cơ sở để quyết định cho những vụ việc sau liên quan đến các sự kiện hoặc vấn đề tương tự”. Quan điểm trước đây cho rằng án lệ là một vụ việc, vụ án đã được Toà án xét xử hoặc phán quyết của Toà án được hiểu là cung cấp những nội dung quy định cho việc quyết định của một vụ việc tương tự xảy ra về sau, hay cũng có thể là áp dụng cho một vấn đề tương tự của pháp luật, hoặc khi xảy ra các sự việc có ít sự khác nhau thì cách giải quyết sự việc đầu qua phán quyết của Toà án sẽ là quyền lực có thể áp dụng cho các sự kiện khác nhau chút ít. nếu hiểu theo cách này thì một bản án, quyết định của Toà án phải chứa đựng trong nó nguyên tắc pháp lý cho một phán quyết ở một trường hợp cụ thể. Đây hiểu như bản tóm lược của nguyên tắc pháp lý áp dụng cho trường hợp cụ thể đó và chỉ nó là có hiệu lực pháp luật. Qua đó chúng ta đã hình dung ra ý nghĩa và tác dụng của án lệ trọng giải thích pháp luật. Tuy nhiên, có một số vấn đề nảy sinh từ thực tế giải quyết tranh chấp và thực tế xét xử của Toà án thì các vụ án, vụ việc thực tế luôn khác nhau. Nếu định lượng và định tính cho án lệ như cách thức truyền thống thì rất khó cho các Toà án giải quyết những trường hợp không giống nhau hoàn toàn nhưng yêu cầu được giải quyết như nhau là rất cần thiết của các bên và cũng là yêu cầu đặt ra cho Toà án. Án lệ hiểu theo cách truyền thống có thể giải quyết được các trường hợp tương tự nhau nhưng có ít nhiều biến dạng mà do khung pháp luật quá rộng hoặc tiên liệu chưa chi tiết hay không?. Đây là một thách thức đối với án lệ theo cách hiểu truyền thống. các nước có truyền thống án lệ thì có sự phát triển mạnh về án lệ 8
  12. và có thể chia thành án lệ bắt buộc và án lệ giải thích, án lệ gốc và án lệ có sức thuyết phục. Án lệ bắt buộc là án lệ bắt phải tuân theo, án lệ giải thích là án lệ chỉ có thể được áp dụng cho một quy định pháp luật hiện đã có rồi, án lệ gốc là án lệ tạo ra và áp dụng một quy định pháp luật hiện đã có rồi. Ngày nay, xét xử tại Toà án ở Việt Nam bao gồm có thẩm phán và hội thẩm cùng tham gia xét xử ở giai đoạn sơ thẩm và chỉ có các thẩm phán tham gia xét xử ở giai đoạn phúc thẩm hoặc theo trình tự giám đốc thẩm. Do đó, khái niệm án lệ nêu trên có thể hiểu là “việc xét xử của thẩm phán và hội thẩm có thể áp dụng trong các trường hợp tương tự”. Án lệ nằm trong pháp luật của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ nên có lượng không nhỏ và có khi rất lớn nên chúng ta có thể xác định chúng nằm trong pháp luật đó như là hệ thống những nguyên tắc bất thành văn đã được công nhận bởi thủ tục nào đó của mỗi quốc gia hay vùng lãnh thổ đó mà thông thường qua các quyết định của Tòa án. Tính chất của án lệ như là cách thức sử dụng các vụ án điển hình hàm chứa trong đó các yếu tố lẽ phải, sự công bằng, nguyên tắc pháp lý làm căn cứ cho việc các thẩm phán, hội thẩm áp dụng để quyết định các vụ việc sẽ xảy ra trong tương lai. Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP “về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ” (Nghị quyết số 03/2015) đã đưa ra định nghĩa khái niệm án lệ tại Điều 1 và Điều 2, cụ thể như sau: “Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể”. Định nghĩa này chưa tường minh về nội dung. Điều 2 của Nghị quyết số 03/2015 có bổ sung thêm cho khai niệm án lệ là “những lập luận làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau; phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng”. Khái niệm về án lệ tại Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã gây ra nhiều cuộc tranh luận về định nghĩa án lệ”[10]. Thực tế đã có nhiều cách hiểu khác nhau về án lệ qua định nghĩa này, đó là: 9
  13. Định nghĩa này về án lệ cho thấy án lệ xác lập với mục đích áp dụng thống nhất pháp luật khi nội dung các quy phạm pháp luật được dẫn chiếu để áp dụng cho việc giải quyết chưa làm thỏa mãn yêu cầu từ thực tế. Hơn nữa, khi giải quyết những vụ án, sự việc tương tự nhưng các Tòa án có nhận thức về pháp luật không giống nhau, hoặc cùng một sự việc nhưng giữa những cơ quan tố tụng có sự nhận thức pháp luật khác nhau. Sự nhận thức khác nhau này có thể cả nội dung luật nội dung và luật tố tụng. Nội dung đó có thể là những quy định chưa chi tiết, chưa cụ thể, hoặc chỉ là những nguyên tắc chung, hoặc có sự chồng chéo giữa các quy phạm dẫn chiếu để áp dụng; hoặc một số khác có sự mâu thuẫn khi có nhiều quy phạm dẫn chiếu để áp dụng giải quyết vụ việc nhưng đưa ra nhiều kết quả giải quyết khác nhau. Từ đó, yêu cầu phải có phân tích, diễn giải cụ thể từ nội dung, phạm vi, đối tượng áp dụng đới với những quy phạm pháp luật cụ thể để giải quyết vấn đề pháp lý cụ thể cần áp dụng đặt ra rất khó khăn cho người thi hành pháp luật là Tòa án. Đối với trường hợp này thì Tòa án sẽ lựa chọn phương án phù hợp nhất trong các phương án như phân tích nghĩa của từ; phân tích khái niệm trong bối cảnh ra đời của quy phạm hoặc theo mục đích ban đầu ban hành quy phạm đó để từ đó đưa ra luận giải đúng đắn về nội dung, phạm vị, đối tượng áp dụng của quy phạm đó còn có nhiều cách hiểu giúp cho việc giải quyết vụ việc, vụ án. Khi bản án, quyết định được lựa chọn cho trường hợp này thì lập luận lý giải trên chính là án lệ. Nghị quyết 03/2015 cho thấy cách hiểu về án lệ là sự phân tích, giải thích các vấn đề pháp lý, sự kiện pháp lý qua đó thì có cơ sở cho Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân khi giải quyết các vụ án, vụ việc có thể nêu ra được các nguyên tắc, phương thức để có thể giải quyết hoặc dẫn chiếu các quy phạm pháp luật cần áp dụng. Đối với những vụ án, vụ việc đặc biệt (gọi là các tranh chấp) về dân sự mà vấn đề cốt yếu ở đây là pháp luật chưa quy định hoặc quy định chưa đầy đủ để thoả mãn áp dụng hay chưa có luật quy định mà các đương sự không thoả thuận được. Tại điều 5 và Điều 6 của Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về cách thức giải quyết trong trường hợp này theo thứ tự như sau: “Trường hợp các bên không có 10
  14. thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán; nếu không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự; trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ và lẽ công bằng”. Nội dung quy định này cũng phù hợp với quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng. Việc giải quyết vụ việc dân sự quy định tại khoản này được thực hiện theo các nguyên tắc do Bộ luật Dân sự và Bộ luật này quy định”. Trong trường hợp mà thẩm phán lập luận, biện giải về việc lựa chọn tập quán hoặc quy định tương tự của pháp luật hoặc phân tích, diễn giải về áp dụng “lẽ công bằng” để từ đó có cơ sở cho phán quyết tại bản án, quyết định, thì lập luận, biện giải hoặc phân tích, diễn giải nêu trên chính là án lệ nếu bản án, quyết định đó được lựa chọn theo thể thức án lệ thì có nhiều khả năng trở thành án lệ theo quy trình được hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2015. 1.1.2. Đặc điểm của án lệ Tạo lập quy tắc pháp lý tin cậy cho việc quyết định các vụ việc tương tự có thể xảy ra trong tương lai. Án lệ sẽ làm cho bản án, quyết định sau này của Tòa án tạo lập quy tắc pháp lý tin cậy cho việc quyết định các vụ việc tương tự có thể xảy ra trong tương lai. Án lệ sẽ giải quyết là những tình tiết thực tế giống nhau, hoặc sự kiện có khác nhau thì các nguyên tắc, các quy định khái quát của pháp luật được áp dụng trong vụ án trở thành án lệ sẽ là vụ án đầu tiên có thể được Tòa án trực tiếp giải quyết vụ án áp dụng cho nhiều sự kiện khác nhau, hoặc tương tự nhau. Án lệ trong mối quan hệ với văn bản quy phạm pháp luật. Trong hệ thống cấu trúc của các nguồn luật thì án lệ ở nước ta là rất mới. Lần đầu tiên có sự đồng thuận của các cơ quan có chức năng như Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp cùng với Tòa án nhân dân tối cao ban hành nghị quyết về án lệ. Cùng với Hiến pháp, Luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, nghị quyết của Ủy ban thường vụ 11
  15. Quốc Hội thì án lệ là nguồn mới của Pháp luật. Tuy nhiên, có quy định nào thể hiện vị trí của án lệ trong các loại nguồn của Pháp luật Việt nam, hiện nay đây còn là nội dung cần tranh luận. Trên thế giới, án lệ xếp ở vị trí thấp nhất trong các loại nguồn của luật. Liệu ở Việt Nam có là ngoại lệ. Ở các nước theo hệ thống luật án lệ như Anh, Mỹ thì Quốc hội có ban hành luật mới mà có xung đột hoặc đi ngược lại với những án lệ trước đó thì sẽ đặt luật ở vị trí cao hơn với các nguyên tắc đã được các án lệ trước đó thiết lập. Các nước theo hệ thống pháp luật dân luật thành văn thì tất cả các bản án quyết định của Tòa án đều căn cứ vào các quy phạm pháp luật có hiệu lực áp dụng với thời điểm đó. Nếu ta đặt ra yêu cầu phải áp dụng án lệ trước, sau đó mới áp dụng các quy định khác để tự Hội đồng xét xử tuyên án thì có đi ngược lại các nguyên tắc cơ bản của pháp luật thế giới không. Nước Đức, Nhật Bản với nền tư pháp tiên tiến nhưng Tòa án tư pháp tối cao của Đức hay Tòa án tối cao của Nhật Bản khi đưa ra các quyết định đều phải căn cứ các điều luật cụ thể. Như vậy, án lệ trong xã hội hiện đại ngày nay vẫn là nguồn bổ trợ cho hệ thống pháp luật các nước trên. Thời kỳ Hy Lạp cổ đại, nhà tư tưởng, hiền triết vĩ đại Aristote cũng đã nêu ra cũng như ủng hộ trường phái tiến bộ về án lệ là: “Các vụ việc giống nhau thì cần phải được xét xử giống nhau”. Châu Âu ngày nay có một nền tư pháp có bề dày lịch sử lâu đời đã có nền tảng tư tưởng này để xây dựng nên học thuyết về án lệ và có cả ở hệ thống pháp luật thông luật (The Common Law systerm) và hệ thống pháp luật dân luật (the Civil law Systerm). Nguyên tắc áp dụng án lệ đã có từ trước chúng ta hàng trăm năm với cấu trúc của nó là nền tảng Common Law. Thực tế ngày nay các quốc gia, vùng lãnh thổ đang theo hệ thống Comon law và Civil law đều có cơ cấu hỗn hợp gồm nguồn luật thành văn và các án lệ. Nhiều học giả, các luật gia đồng tình với quan điểm cho rằng cả hệ thống pháp luật Civillaw và Comonlaw đều phát triển và đến ngày nay đã có tạo dựng cho chính mình cơ cấu hỗn hợp gồm nguồn luật thành văn và luật dựa trên cơ sở án lệ. 12
  16. Hệ thống pháp luật của những quốc gia, vùng lãnh thổ theo thông luật xét mặt truyền thống vẫn đa phần tạo lập trên cơ sở các án lệ. Học thuyết mà chúng ta vẫn biết về án lệ được thể hiện trong truyền thống luật khác nhiều với án lệ trong hệ thống có truyền thống dân luật thành văn. Ở các nước có hệ thống dân luật thành văn, án lệ không được thừa nhận. Tuy nhiên, ngày nay có nhiều sự khác biệt và có sự tiếp thu nên có thể vẫn tồn tại cả án lệ và dân luật thành văn. Ngày nay, nguồn chính thống của các quốc gia, vùng lãnh thổ nằm trong hệ thống pháp luật commonlaw thì án lệ là nguồn chính thức. Những quan điểm cổ điển cho rằng hệ thống pháp luật common law thì pháp luật bắt đâu từ các án lệ đã có của Tòa án. Như vậy, có Tòa án và có lịch sử với bề dày xét xử thì sẽ có hệ thống pháp luật án lệ. Tuy nhiên, đa phần những án lệ đó đến ngay nay vẫn được cho là công lý, là lẽ phải. Án lệ tạo ra từ hoạt động áp dụng pháp luật, giải thích pháp luật, bổ sung những điểm còn thiếu, chưa rõ ràng, chưa thống nhất của pháp luật. Quan điểm về án lệ được biết trong hệ thống pháp luật Mỹ, Anh có yếu tố lịch sử riêng. Đó là nó gắn với lịch sử hình thành thông luật và sự tiến bộ của pháp luật thành văn đã bổ sung cho những hạn chế, bất cập, thiếu sót của thông luật. Xã hội luôn phát triển nên có nhiều án lệ không thể điều chỉnh các xung đột trong các quan hệ mới. Án lệ trong hệ thống của các nước theo nền tảng commonlaw gắn với những thuyết về án lệ mà ở đó án lệ được xác định và luôn luôn là ràng buộc. Nhưng nó ngược lại với những nước theo hệ thống luật civil law là án lệ đánh giá là nguồn luật thứ hai hay ta thường gọi là thứ cấp. Trong hệ thống pháp luật civilaw thì án lệ đóng vai trò là phần giải thích pháp luật mà qua các thẩm phán luật được giải thích cụ thể nhất. Các quy định pháp luật thành văn thường nêu khái quát đôi khi trừu tượng, phổ quát chung cho nhiều dạng thức, nhiều trường hợp. Thực tế các quy định hiện hành của luật thành văn sẽ luôn có xu hướng lỗi thời so với đời sống xã hội hiện tại nên nó đối diện với thực tế 13
  17. xã hội đa dạng và thường xuyên bộc lộ điểm yếu là sự lạc hậu của nó. Do đó, luật thực định không thể bảo trùm cho mọi xung đột trong xã hội mà khi làm luật các nhà biên soạn luật mong muốn dự liệu. Ngày nay, án lệ tồn tại và có vai trò hơn trong những nước theo hệ thống dân luật như Pháp, Đức, Tòa án Công lý Châu âu. Nó đã được viện dẫn nhiều hơn khi thẩm phán các nước này tham gia xét xử. Hệ thống các quy phạm pháp luật của những quốc gia, vùng lãnh thổ áp dụng hệ thống dân luật đa phần xây dựng từ sự pháp điển hóa pháp luật của các nước. Có phải luật bắt nguồn từ các quy định pháp luật trong luật thành văn hay luật bắt đầu từ các án lệ của Tòa án. Các quan điểm luật học so sánh đã rất chú ý đến sự khái quát về bản chất các loại nguồn của pháp luật mà trong đó có đề cao vị trí và vai trò của án lệ. Trong tư tưởng pháp lý hiện đại ngày nay nên xem xét pháp luật bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật hiện có, các trường hợp thực tiễn pháp luật đã được áp dụng (án lệ) và cùng với đó là những thể chế pháp lý và những học thuyết pháp lý tiên tiến. Tất cả các nội dung đó nên được đánh giá trong mối tương quan, tương hỗ, trong sự tác động cùng nhau để giải thích pháp luật. Khi sự giao thoa của nền văn minh nhân loại chưa tới độ mạnh mẽ, các quốc gia, vùng lãnh thổ theo trường phái pháp luật thực định chỉ quan tâm, chú trọng đến xây dựng cho mình những quy phạm pháp luật cụ thể, có thể theo nhiều tầng và vừa có nội dung khái quát vừa có tính cá biệt, khu biệt. Các quốc gia và vùng lãnh thổ theo trường phái pháp luật thực tiễn pháp luật thì có sẵn tính ổn định của các án lệ lâu đời trong hệ thống pháp luật của mình nên chậm có sự điều chỉnh pháp luật cho phù hợp với các giá trị mới hiện hữu của cuộc sống hiện tại. 1.1.3. Các nguyên tắc áp dụng án lệ Đối với những quốc gia có pháp luật theo hệ thống Anh - Mỹ (Common Law) thì các bản án mẫu được tuyển chọn và đăng tải trong các tuyển tập án lệ mà chúng ta có thể bắt gặp như là các báo cáo tổng hợp án lệ. Tại các quốc gia này án lệ là một loại nguồn của pháp luật. 14
  18. Đối với hệ thống pháp luật Mỹ, việc xét xử những vụ việc vi phạm pháp luật hay tranh chấp nảy sinh, sự diễn dải pháp luật của các Toà án là bắt buộc và diễn dải bằng các bản án của các Toà án cùng cấp hoặc bản án của Toà án cấp cao hơn. Hệ thống pháp luật của Mỹ đã hình thành nên nguyên tắc “tuân thủ theo phán quyết trước đó” mà chúng ta có thể hiểu khái quát hơn là tuân theo án lệ hay tuân theo tiền lệ pháp. Ở Anh quốc thì án lệ có quê hương từ đây nên án lệ có vai trò quan trọng là sáng tạo. Quy tắc tuân theo tiền lệ pháp đã có từ thế kỷ IX và được diễn giải rằng một phán quyết được ban hành trước đó chỉ có hiệu lực ràng buộc đối với các thẩm phán khi xét xử các vụ kiện tương tự. Họ cũng chú trọng việc xây dựng án lệ theo quan điểm của những Toà án có thẩm quyền xem xét các bản án của Toà án cấp dưới nên đã bổ sung những thiếu sót của các quy định pháp luật trong thực tiễn, vậy nên ở Anh việc vận dụng án lệ và tục lệ rất phổ biến. Đây là quan niệm còn xa lạ với các thẩm phán, hội thẩm ở Việt Nam khi xét xử. Việc áp dụng án lệ tại Cộng hoà liên bang Đức Nước Đức được coi là có hệ thống pháp luật theo châu Âu lục địa, có pháp luật cơ bản là văn bản quy phạm pháp luật hay đó là nền tảng pháp luật dân sự. Văn bản quy phạm pháp luật ở nước Đức thống nhất hiện nay có bề dày truyền thống từ xa xưa và có trình độ kỹ thuật lập pháp cao và tiên tiến. Như vậy, Toà án ở nước Đức chỉ có nhiệm vụ áp dụng pháp luật từ các quy phạm đã có để giải quyết những vụ việc cụ thể. Trọng tâm của hệ thống pháp luật là luật thành văn và đây cũng giống với cách thức hiểu và áp dụng pháp luật mà Việt Nam đang thực hiện. Ở Đức Toà án có nhiệm vụ giải thích pháp luật nhưng thông qua các nguyên tắc sau đây: 1. Dựa theo nguyên văn của điều luật (Die Auslegung nach dem Wortlaut) 2. Dựa theo tính hệ thống của các quy phạm (Die systematische Auslegung) 3. Dựa theo mục đích của qui phạm (Auslegung nach dem Normzweck - teleologische Interpretation) 15