Luận văn Ảnh hưởng nhóm yếu tố đặc điểm ngân hàng đến rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại Việt Nam
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Ảnh hưởng nhóm yếu tố đặc điểm ngân hàng đến rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_van_anh_huong_nhom_yeu_to_dac_diem_ngan_hang_den_rui_ro.pdf
Nội dung text: Luận văn Ảnh hưởng nhóm yếu tố đặc điểm ngân hàng đến rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại Việt Nam
- LỜI CAM ĐOAN Đề tài nghiên cứu “Ảnh hưởng nhóm yếu tố đặc điểm ngân hàng đến rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại Việt Nam” là đề tài nghiên cứu do chính tác giả thực hiện. Đề tài này thực hiện thông qua việc vận dụng kiến thức đã học, nhiều tài liệu tham khảo và sự tận tình hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học, cùng với sự trao đổi giữa tác giả và các cá nhân, tập thể khác. Luận văn này không sao chép từ bất kỳ một nghiên cứu nào khác. Tôi xin cam đoan những lời nêu trên đây là hoàn toàn đúng sự thật! Thành phố Hồ Chí Minh, 2012 Nguyễn Đỗ Vũ Phong 1
- LỜI CẢM ƠN Con đường đến với khoa học là con đường vinh quang nhưng luôn trải đầy chông gai mà không phải ai cũng có thể tự mình vững bước tiến lên bục vinh dự. Trong quá trình thực hiện bài nghiên cứu này, tôi cũng gặp không ít khó khăn và bỡ ngỡ của một người lần đầu tiên đặt chân trên bước đường nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, trong những lúc gặp trở ngại trong công tác nghiên cứu, tôi luôn nhận được sự động viên, hỗ trợ tận tình của cô Võ Thị Quý, khoa Sau đại học và các anh, chị trong lớp MFB2. Xin chân thành cảm ơn cô Võ Thị Quý đã dành nhiều thời gian quý báu của mình để hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này! Tôi cũng rất biết ơn các thầy cô, cán bộ khoa Sau đào tạo đã tạo mọi điều kiện để tôi được tiếp cận đến tri thức khoa học thực sự, đây là sự giúp đỡ vô giá giúp tôi hoàn thành luận văn này. Tôi cũng xin cảm ơn các anh, chị trong lớp MFB2 đã luôn động viên và đưa ra những lời khuyên chân thành giúp tôi có động lực hoàn thành luận văn này! Cuối cùng, tôi rất cảm ơn các thành viên trong gia đình đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi được theo đuổi ước mơ đến với khoa học của mình! TP.Hồ Chí Minh, năm 2012 Nguyễn Đỗ Vũ Phong 2
- TÓM TẮT Rủi ro tín dụng là mối quan tâm lớn của nhiều nhà khoa học khi nó tác động lớn đến nhiều bộ phận trong nền kinh tế. Trong bối cảnh Việt Nam, bài luận văn nghiên cứu “ảnh hưởng nhóm yếu tố thuộc đặc điểm ngân hàng đến rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại Việt Nam” được thực hiện nhằm giúp có các nhà đầu tư cũng như những ai quan tâm đến ngành ngân hàng có được cái nhìn sâu sắc về ngành này. Bài nghiên cứu thu thập số liệu từ 32 ngân hàng Việt Nam, sau khi phân tích số liệu bài nghiên cứu tìm thấy các yếu tố có tác động đến rủi ro tín dụng là tăng trưởng tín dụng của 1-2 năm trước, quy mô dư nợ và tỷ lệ chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt động cho vay. Kết quả này cũng khá phù hợp với kết quả tìm được khi nghiên cứu các nền kinh tế khác trên thế giới. 3
- MỤC LỤC BẢNG BIỂU Tên bảng biểu Trang Bảng 3.1: Quy mô dư nợ 2007 – 2010 42 Bảng 3.2: Các thông số thống kê mô tả 45 Bảng 3.3: Phân tích tương quan 47 Bảng 3.4: Kết quả kiểm định mức độ giải thích của mô hình 48 Bảng 4.1: Kết quả kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến 50 Bảng 4.2: Kết quả kiểm định tương quan hạng Spearman 52 Bảng 4.3: Kết quả kiểm định Durbin Watson 54 Bảng 4.4: Kết quả tính hệ số xác định mô hình 55 Bảng 4.5: Kết quả kiểm định độ phù hợp của các biến giải thích 55 4
- MỤC LỤC SƠ ĐỒ VÀ ĐỒ THỊ Tên sơ đồ và đồ thị Trang Sơ đồ 2.1: Quy trình chấm điểm tín dụng. 13 Đồ thị 1.1: Cơ cấu thu nhập của 10 ngân hàng lớn năm 2010 5 Đồ thị 2.1: Thị phần tổng tài sản của các khối NHTM 10 Đồ thị 2.2: Thị phần tín dụng của các khối NHTM đến tháng 10/2011 11 Đồ thị 2.3: Minh họa chênh lệch Yi và i 33 Đồ thị 2.4: Mô tả chênh lệch giữa và 34 Đồ thị 2.5: Minh họa chênh lệch Yi và 34 Đồ thị 2.6: Minh họa mô hình R2=0. 36 Đồ thị 2.7: Minh họa mô hình có R2= 0,2561 36 Đồ thị 2.8: Minh họa mô hình R2= 0,74808 37 Đồ thị 3.1: Phân bố giá trị tổng tài sản năm 2010 42 Đồ thị 3.2: Phân bố vốn chủ sở hữu năm 2010 43 Đồ thị 3.3: Phân bố số dư cho vay năm 2010 44 Đồ thị 4.1: Quan hệ phần dư chuẩn hóa và chưa chuẩn hóa 51 Đồ thị 4.2: Hình dạng phân phối phần dư 52 Đồ thị 4.3: Giá trị phần dư theo thứ tự quan sát 54 5
- MỤC LỤC: 6
- CHƯƠNG I: TỔNG QUAN Trong chương này, luận văn sẽ trình bày tổng quan bài nghiên cứu, bao gồm: lý do chọn đề tài, nêu vấn đề nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu, đặt ra mục tiêu nghiên cứu và lựa chọn phương pháp nghiên cứu để thực thiện mục tiêu nghiên cứu đã nêu. Lý do chọn đề tài Hoạt động ngành ngân hàng Việt Nam đang phát triển khá mạnh trong khoảng thời gian vài năm gần đây với giá trị vốn chủ sở hữu ngày càng lớn, thu hút sự quan tâm của nhiều thành phần trong xã hội. Tuy nhiên, đây là ngày có nhiều điểm đặc thù riêng biệt so với các ngành nghề khác, đòi hỏi các đến tượng quan tâm phải được trang bị nhiều kiến thức chuyên ngành để có thể đánh giá được đầy đủ tình hình hoạt động của từng ngân hàng. Về cơ bản, nguồn thu của ngân hàng hiện nay đến từ 4 hoạt động chính: thu lãi cho vay, thu phí dịch vụ, đầu tư tài chính và kinh doanh ngoại hối. Trong đó, thu nhập từ lãi cho vay vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất so với các hoạt động khác. Vì vậy, sự phát triển quy mô ngân hàng bị phụ thuộc nhiều vào sự phát triển hoạt động tín dụng. Nên hoạt động tín dụng nói chung và tăng trưởng tín dụng nói riêng, đặc biệt được quan tâm ở Việt Nam trong 3 năm trở lại đây khi nó đóng vay trò quan trọng làm lạm phát gia tăng (Nguyễn Thị Thu Hằng và Nguyễn Đức Thành 2011). Ngoài việc tác động đến lạm phát, tăng trưởng tín dụng ảnh hưởng trước tiên và mạnh nhất đến hoạt động của chính các ngân hàng. Nghiên cứu của Dell’Ariccia và Marquez (2006) cho thấy sau thời kỳ tăng trưởng tín dụng nhanh sẽ xảy ra khủng hoảng trong ngành ngân hàng. Ví dụ như các cuộc khủng hoảng đã xảy ra tại Argentina năm 1980, Chile năm 1982; Thụy Điển, Na Uy và Ba lan năm 1992, Mexico năm 1994; và Thái lan, Indonesia và Hàn Quốc năm 1997. Tương tự như vậy, Caprio and Klingebiel (1997), Demirguc- Kunt và Detragiache (1997), Honohan (1997) và Kraft và Jankov (2005) cung 7
- cấp bằng chứng từ dữ liệu của nhiều quốc gia cho thấy bùng nổ tín dụng làm tăng khả năng khủng hoảng ngân hàng. Nghiên cứu của Mendoza và Terrones (2008) cũng nhận định : không phải tất cả thời kỳ bùng nổ tín dụng đều đi đến khủng hoảng, nhưng nhiều cuộc khủng hoảng ở những nền kinh tế đang chuyển đổi hiện nay có quan hệ với sự bùng nổ tín dụng. Qua nhận định của các nhà nghiên cứu đi trước cho thấy: hoạt động tín dụng là một vấn đề lớn cần được quan tâm nghiên cứu ở bất kỳ nền kinh tế nào. Hoạt động tín dụng là hoạt động chính của ngân hàng. Vì vậy, rủi ro trong hoạt động tín dụng luôn gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Ngân hàng lại là trung gian tài chính, nhận nhiệm vụ cất trữ tiền của cả nền kinh tế. Nên rủi ro tác động đến ngân hàng cũng sẽ lan toả ra cả nền kinh tế không chỉ ở qui mô một quốc gia. Tác động đến ngân hàng thương mại: Khi rủi ro tín dụng xảy ra, ngân hàng không thu được đầy đủ vốn tín dụng đã cho vay. Tuy nhiên, nguồn vốn dùng để cấp tín dụng được ngân hàng huy động trong nền kinh tế bằng hợp đồng có thời hạn. Khi đến hạn thanh toán, ngân hàng bắt buộc phải tìm nguồn khác để thanh toán cả gốc lẫn lãi cho người gửi tiền, làm cho vòng quay vốn của ngân hàng chậm lại, ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của mình. Nếu rủi ro tín dụng xảy ra liên tục với quy mô lớn tới mức ngân hàng không thể có đủ tiền để thanh toán cho người gửi tiền, uy tín ngân hàng sẽ bị giảm sút ngay lập tức, những đối tượng khác có tiền gửi tại ngân hàng nhưng chưa đến hạn cũng sẽ lập tức đến ngân hàng rút toàn bộ tiền gửi của mình. Lúc này, ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, đưa đến bờ vực phá sản nếu không có sự hỗ trợ kịp thời từ phía Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ. Mỗi ngân hàng trong 1 quốc gia đều có liên quan đến toàn bộ hệ thống ngân hàng và các tổ chức kinh tế, xã hội và cá nhân trong nền kinh tế. Do vậy, nếu một ngân hàng có kết quả hoạt động không tốt, thậm chí dẫn đến mất khả năng thanh toán và phá sản thì sẽ có những tác động dây chuyền ảnh hưởng 8
- xấu đến các ngân hàng và bộ phận kinh tế khác. Nếu không có sự can thiệp kịp thời của Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ thì tâm lý sợ mất tiền sẽ lây lan đến toàn bộ người gửi tiền và họ sẽ đồng loạt rút tiền tại các ngân hàng thương mại khác, làm cho các ngân hàng khác vô hình chung cũng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Tác động đến nền kinh tế: Bắt nguồn từ bản chất và chức năng của ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính chuyên huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho các tổ chức, các doanh nghiệp và cá nhân có nhu cầu vay lại. Do đó, thực chất quyền sở hữu những khoản cho vay là quyền sở hữu của người đã gửi tiền vào ngân hàng. Vì vậy, khi rủi ro tín dụng xảy ra thì không những ngân hàng chịu thiệt mà quyền lợi của người gửi tiền cũng bị ảnh hưởng. Khi một ngân hàng gặp khó khăn tài chính hay bị phá sản thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng thanh toán tiền gửi, ảnh hưởng tình hình tài chính của người gửi tiền cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Chính vì có mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế như vậy nên một ngân hàng bị phá sản sẽ làm cho nền kinh tế bị rối loạn, hoạt động kinh tế bị mất ổn định và ngưng trệ, bất ổn về quan hệ cung cầu, lạm phát, thất nghiệp, tệ nạn xã hội gia tăng, tình hình an ninh chính trị bất ổn Không chỉ ở quy mô quốc gia, rủi ro tín dụng cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều gắn kết chặt chẽ vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Kinh nghiệm cho ta thấy cuộc khủng hoảng tài chính châu Á (1997) và mới đây là cuộc khủng hoảng tín dụng thứ cấp tại Mỹ (2008-2009) đã làm “rung chuyển” kinh tế toàn cầu. Tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra sẽ gây ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau: nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất là ngân hàng không thu được vốn gốc và lãi vay, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân 9
- hàng nói riêng. Vì vậy, rủi ro tín dụng luôn được nhận được sự quan tâm của mọi thành phần trong nền kinh tế, đặc biệt là các nhà đầu tư quan tâm vào lĩnh vực ngân hàng. Vấn đề mua bán sáp nhập đang là một xu thế phổ biến khi nền kinh tế rơi vào giai đoạn hó khăn. Nhiều doanh nghiệp đã phải chấp nhận con đường bán cả công ty cho các doanh nghiệp có tiềm lực lớn để trang trải nợ nần hoặc phải quyết định bán khi doanh nghiệp vẫn còn có giá cao thay vì tiếp tục duy trì công việc kinh doanh càng ngày càng lụn bại cho đến lúc phá sản. Xu thế này đang lan nhanh sang ngành ngân hàng – ngành đang có mức độ cạnh tranh khốc liệt, và có nhiều biểu hiện thiếu hiệu quả ở những ngân hàng nhỏ. Bên cạnh đó, việc mua bán đối với các ngân hàng lớn cũng trở nên thuận lợi hơn khi các giao dịch liên quan đến cổ phần ngân hàng đã được thực hiện dễ dàng thông qua thị trường chứng khoán. Trong thời gian gần đây, càng có nhiều nhà đầu tư quan tâm đến lĩnh vực ngân hàng khi giá cổ phiếu của ngành đã giảm khá mạnh trước sự ảnh hưởng từ cuộc suy thoái kinh tế thế giới. Nhưng làm thế nào để chọn ngân hàng đầu tư trong số rất nhiều ngân hàng tại Việt Nam? Làm thế nào để xác định giá trị nội tại của một ngân hàng? Để phân tích giá trị của ngân hàng trước khi quyết định đầu tư, ngoài tiêu chí chỉ số tài chính còn chỉ số nào khác không? Ngành ngân hàng có đặc thù riêng biệt so với các loại hình doanh nghiệp khác. Phần lớn tài sản của ngân hàng là các khoản cho vay luôn tiềm ẩn rủi ro tín dụng. Nên bài nghiên cứu đề xuất thêm công cụ để nhà đầu tư sử dụng trong quá trình nghiên cứu các ngân hàng. Đó là phân tích, dự báo rủi ro tín dụng tiềm ẩn trong từng ngân hàng. Vì hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại tỷ trọng lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, đồng thời đây cũng là hoạt động được Ngân hàng Nhà nước quản lý khá chặt chẽ nên nếu hoạt động tín dụng không lành mạnh sẽ để lại hậu quả nghiêm trọng cho hoạt động bình thường, cũng như khả năng sinh lời trong tương lai. Đi sâu vào nghiên cứu các tác động từ việc tăng trưởng tín dụng, cũng như những nhân tố khác từ đó nhận diện sớm các tác động tiêu cực của chúng đến rủi ro tín dụng sẽ giúp các nhà quản lý ngân hàng kiểm soát tốt các tác 10
- động từ việc đẩy mạnh cho vay. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu cũng giúp ích cho các nhà đầu tư quan tâm đến lĩnh vực ngân hàng có được cái nhìn sâu sắc hơn về hoạt động ngân hàng, cũng như các rủi ro tiềm ẩn trong lĩnh vực ngân hàng. Từ yêu cầu bức thiết trên, tác giả chọn đề tài “ảnh hưởng nhóm yếu tố đặc điểm ngân hàng đến rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại Việt Nam”. Vậy rủi ro của hoạt động tín dụng chịu ảnh hưởng từ những loại rủi ro nào? Làm sao để dự đoán rủi ro tín dụng trong khoảng thời gian tới? Đây là những câu hỏi mà kết quả nghiên cứu sẽ trả lời dựa trên số liệu thu thập từ các ngân hàng thương mại Việt Nam. Việt Nam chưa phải là một quốc gia phát triển về cả kinh tế lẫn giáo dục. Hoạt động ngân hàng còn khá non trẻ, đang cần có nhiều nghiên cứu để đưa ngân hàng Việt Nam hòa nhịp cùng sự phát triển của thế giới. Tuy nhiên, hoạt động nghiên cứu ở Việt Nam gặp nhiều trở ngại ở khâu thu thập số liệu và chất lượng dữ liệu thu thập được. Đây là điểm khó khăn chung của các quốc gia đang phát triển. Trong điều kiện như vậy, bài nghiên cứu “ảnh hưởng nhóm yếu tố đặc điểm ngân hàng đến rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại Việt Nam” sử dụng nguồn dữ liệu do các ngân hàng công bố nhằm tìm ra các yếu tố có quan hệ với rủi ro tín dụng, trong đó nhận diện được mức độ tác động của từng yếu tố, giúp cho các nhà đầu tư nhận diện một số dấu hiệu có thể gây ra rủi ro tín dụng. Vấn đề và câu hỏi nghiên cứu Vấn đề nghiên cứu Hoạt động tín dụng luôn đem lại trên 70% thu nhập của các ngân hàng Việt Nam. Điều này cũng nói lên rằng rủi ro tín dụng luôn là nguy cơ đe doạ lớn đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. Nếu chất lượng tín dụng tốt sẽ gia tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Ngược lại, nếu hoạt động tín dụng tiềm ẩn nhiều rủi ro sẽ làm suy giảm kết quả kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, rủi ro tín dụng luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu đối với các các nhà đầu tư và nhà quản trị ngân hàng ngân hàng. Bên cạnh phương pháp đánh giá chất lượng của 11
- ngân hàng thông qua các chỉ tiêu tài chính thông dụng như ROA, ROI, CAR, NIM Chúng ta cần phải có thêm phương pháp phân tích sâu vào loại tài sản chiếm tỷ trọng vô cùng lớn của các ngân hàng là các khoản cho vay. Chính kết quả phân tích các khoản cho vay này mới cho ta 1 cái nhìn rõ ràng về “sức khỏe” của từng ngân hàng và triển vọng phát triển bền vững của ngân hàng đó. Đồ thị 1.1: Cơ cấu thu nhập của 10 ngân hàng lớn trong năm 2010 Nguồn: VCBS (2011) Theo thông lệ quốc tế các ngân hàng lớn sẽ có xu hướng giảm tỷ trọng thu nhập từ lãi trong tổng thu nhập để hạn chế rủi ro, các ngân hàng phát triển ổn định đều có nguồn thu từ lãi chiếm 30-40% tổng thu. Tuy nhiên, qua đồ thị thể hiện cơ cấu thu nhập của 10 ngân hàng lớn nhất Việt Nam, cho thấy thu nhập từ lãi của các ngân hàng lớn đều chiếm tỷ trọng khá cao. Tỷ lệ này có thể còn cao hơn nữa đối với các ngân hàng nhỏ hơn. Từ việc phân tích tỷ trọng nguồn thu của các ngân hàng có thể nhận thấy nguồn thu từ hoạt động tín dụng đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại của ngân hàng. Do đó, tìm hiểu sâu hơn về hoạt động tín dụng sẽ giúp nhà đầu tư nhận diện rõ hơn về sức mạnh nội tại của các ngân hàng. Tác giả tiến hành nghiên cứu các nhân tố có liên quan đến rủi ro tín dụng nhằm đề xuất thêm cơ sở để nhà đầu tư đưa ra được quyết định mua 12
- bán hợp lý nhất. Câu hỏi nghiên cứu: Các yếu tố thuộc đặc điểm của ngân hàng như: tăng trưởng tín dụng, qui mô ngân hàng, tỉ lệ chi phí trên thu nhập, tỷ lệ thu nhập trước dự phòng so với tổng dư nợ ảnh hưởng lên rủi ro tín dụng của ngân hàng như thế nào? Mục tiêu nghiên cứu Xác định mức độ giải thích của từng biến lên rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nghiên cứu đề ra, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng dựa trên cơ sở thống kê mô tả, phân tích tương quan, phân tích hồi qui. Thống kê mô tả: Tập hợp dữ liệu và phân tích những yếu tố tổng quan về dữ liệu thu thập được. Phân tích tương quan: Xác định mức độ tương quan giữa các biến để lựa chọn biến đưa vào mô hình. Bước này rất quan trọng trước khi thực hiện phân tích hồi qui. Thông qua thống kê mô tả, tác giả sẽ loại bỏ các biến có tác động yếu hoặc không có ý nghĩa. Phân tích hồi qui tuyến tính: thực hiện hồi qui tuyến tính theo phương pháp bình quân tối thiểu. Đưa cùng một lúc nhiều yếu tố vào mô hình, sau đó tuần tự loại trừ chúng bằng tiêu chuẩn loại trừ trong phân tích hồi qui để có được mô hình nhóm yếu tố tác động đến rủi ro tín dụng có ý nghĩa nhất. Giới hạn của đề tài: Bài nghiên cứu sử dụng số liệu báo cáo tài chính của 32 ngân hàng thương mại Việt Nam từ năm 2007 đến 2010, để nghiên cứu các biến thuộc phạm vi đặc điểm nội tại của ngân hàng tác động đến rủi ro tín dụng của ngân hàng hàng thương mại Việt Nam. 13
- Bố cục của luận văn Đề tài nghiên cứu bao gồm 5 chương: Chương 1: Trình bày tóm lược lý do nghiên cứu, vấn đề nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu kết cấu của luận văn. Chương 2: Giới thiệu về rủi ro tín dụng, mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng với các nhân tố tác động, các bài nghiên cứu trước về rủi ro tín dụng và quy định hoạt động tín dụng tại Việt Nam. Chương 3: Trình bày cách thức thu thập dữ liệu nghiên cứu và xử lý dữ liệu thu thập được. Chương 4: Kiểm tra các giả định của mô hình nghiên cứu, phân tích kết quả nghiên cứu. Chương 5: Kết luận, đề xuất giải pháp, nêu hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo. Tóm tắt Hoạt động cho vay là hoạt động chính yếu của ngân hàng nên rủi ro trong hoạt động cho vay sẽ tác động rất lớn đến hoạt động của ngân hàng và tác động dây chuyền đến cả nền kinh tế. Đề tài chọn rủi ro trong hoạt động cho vay làm vấn đề nghiên cứu để làm rõ các nhân tố tác động nhằm đề ra những biện pháp hạn chế các rủi ro có thể xảy ra. Ngoài ra, hoạt động tín dụng luôn cần được xem xét kỹ để đánh giá sự lành mạnh của các ngân hàng. Vì vậy, đề tài này mong muốn góp 1 phần kiến thức giúp nhà đầu tư có nhiều thông tin hơn trước khi quyết định đầu tư vào ngành ngân hàng. CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ THUYẾT Chương II trình bày giới thiệu chung về ngành ngân hàng Việt Nam, các khái niệm về rủi ro tín dụng, tăng trưởng tín dụng, qui mô ngân hàng, tỷ lệ 14
- chi phí hoạt động trên thu nhập hoạt động, tỷ lệ thu nhập ròng từ hoạt động kinh doanh trước chi phí dự phòng rủi ro tín dụng và tổng dư nợ tín dụng . Đồng thời, tìm hiểu mối quan hệ giữa rủi ro tín dụng và các nhân tố tác động. Kế đến, chương này trình bày các bài nghiên cứu trên thế giới nghiên cứu cùng nghiên cứu về các vấn đề có liên quan đến rủi ro tín dụng. Trên cơ sở các khái niệm và lý thuyết có liên quan, chương II đề xuất giả thiết nghiên cứu, mô hình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu. Giới thiệu chung về ngành ngân hàng Việt Nam: Ngành ngân hàng được xem là chính thức xuất hiện tại Việt Nam sau sự ra đời của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam vào ngày 6/5/1951. Tuy nhiên, giai đoạn đầu, các ngân hàng hoạt động với các nghiệp vụ khá thô sơ và thiếu kiểm soát cho đến 01/1/1998, khi Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành. Từ đó, hoạt động ngân hàng được kiểm soát chặt chẽ hơn, chức năng ngân hàng nhà nước với tư cách là người quản lý hoạt động của các tổ chức tín dụng cũng được thể hiện rõ ràng hơn. Nhờ vậy, hoạt động của các tổ chức tài chính, tín dụng ngày càng phát triển và thu hút thêm nhiều ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Đến nay, sau gần 25 năm đổi mới và phát triển, tính đến tháng 11/2011, hệ thống các tổ chức tín dụng gồm có: 5 ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước hoặc nhà nước nắm tỷ lệ sở hữu chi phối, 37 ngân hàng thương mại cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh, 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 54 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Bên cạnh đó còn có 18 công ty tài chính và 12 công ty cho thuê tài chính, 1 quỹ tín dụng nhân dân trung ương và 1.085 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, 1 tổ chức tài chính quy mô nhỏ. Với mạng lưới hoạt động rộng khắp, quy mô vốn ngày càng lớn, trình độ công nghệ và chất lượng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng từng bước được cải thiện, hệ thống các tổ chức tín dụng đã đáp ứng ngày càng hiệu quả hơn nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xoá đói, giảm 15
- nghèo, nâng cao đời sống nhân dân và thúc đẩy nhanh hơn quá trình chu chuyển vốn và lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế. Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế của hệ thống ngân hàng trong 10 năm qua có mức tăng trưởng bình quân 31%/năm, trong đó dư nợ tín dụng đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn tăng gần 40%, cao hơn nhiều so với mức tăng dưới 10% vào những năm 1990. Dữ liệu cập nhật của Ngân hàng Nhà nước qua các tháng từ cuối năm 2009 đến nay cho thấy hệ thống các ngân hàng thương mại không ngừng lớn mạnh và có tốc độ tăng trưởng nhanh về quy mô. Trong đó, khối ngân hàng thương mại cổ phần đang thể hiện sự tăng trưởng nhanh, cũng như khả năng chiếm lĩnh thị phần mạnh hơn các khối còn lại. Tính đến cuối tháng 10/2011, tổng tài sản của hệ thống các ngân hàng thương mại là 4.713,2 nghìn tỷ đồng, tăng 13,5% so với cuối năm 2010. Khối ngân hàng thương mại cổ phần có tốc độ tăng trưởng cao hơn mức bình quân đó với 16,4% so với cuối năm 2010. 16
- Đồ thị 2.1: Thị phần tổng tài sản của các khối NHTM (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước, 2011) Thống kê cho thấy, những năm gần đây thị phần của khối ngân hàng thương mại nhà nước đang giảm dần; năm 2009 là 47,6%, năm 2010 là 41,3% và đến cuối tháng 10/2011 còn 39%. Thay vào đó là sự tăng trưởng mạnh mẽ 17
- của khối ngân hàng thương mại cổ phần với thị phần về tổng tài sản tăng dần qua các năm; Năm 2009 là 41,2%, năm 2010 là 44,3% và đến cuối tháng 10/2011 là 45,4%. Thị phần khối ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài biến động không lớn với tỷ trọng khoảng 12% xuống còn 11,3%. Về tín dụng, đến cuối tháng 10/2011, khối ngân hàng thương mại nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong hệ thống các tổ chức tín dụng với 51,3%; khối ngân hàng thương mại cổ phần chiếm tỷ trọng 35,3%. Đồ thị 2.2: Thị phần tín dụng của các khối NHTM đến tháng 10/2011 (Nguồn: Ngân hàng Nhà nước, 2011) Ngược lại, về huy động vốn trên thị trường 1, đến cuối tháng 10/2011, khối ngân hàng thương mại cổ phần lại chiếm tỷ trọng lớn nhất với 45,2%; khối ngân hàng thương mại nhà nước chiếm tỷ trọng 43,8%; khối các tổ chức tín dụng nước ngoài chiếm tỷ trọng 7,5%. Tìm hiểu lịch sử phát triển của các ngân hàng Việt Nam so với các ngân hàng trên thế giới cho thấy hệ thống ngân hàng Việt Nam còn khá non trẻ. Các nghiên cứu được đề cập ở các phần trước đều được nghiên cứu trên các nền kinh tế phát triển với các ngân hàng có truyền thống hàng trăm năm. Vì vậy, khi tiến hành thực hiện nghiên cứu cần phải phân tích kỹ những điểm khác biệt so với hệ thống ngân hàng tại các quốc gia phát triển, bên cạnh việc kế thừa các nghiên cứu trước. Điểm khác biệt rõ ràng nhất giữa các ngân hàng Việt Nam và các ngân hàng khác trên thế giới là các ngân hàng Việt Nam phải hoạt động dựa trên khuôn khổ pháp luật và các quy định tại Việt Nam. Trong đó, các quy định về quản lý rủi ro tín dụng luôn đòi hỏi các ngân hàng phải tuân thủ nghiêm ngặt. Theo Ngân hàng Nhà nước (2005 và 2007), việc trích lập dự 18
- phòng dựa trên 2 phương pháp: phương pháp định lượng và phương pháp định tính. Theo quyết định này, các ngân hàng có thể áp dụng phương pháp định tính nhưng hầu hết các ngân hàng đều chưa áp dụng do chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể việc này. Vì vậy, khi phân tích khả năng thu hồi vốn của ngân hàng Việt Nam dựa trên số liệu dự phòng rủi ro tín dụng sẽ đảm bảo tính đồng nhất về cách nhận định rủi ro tín dụng và tránh tình trạng thổi phồng dự phòng để che giấu thu nhập như các quốc gia phát triển (Fonseca và Gonzalez, 2008; Perez và các cộng sự, 2006). Tuy nhiên, phân loại nợ theo phương pháp định lượng cũng chưa thật sự phản ánh được hết rủi ro tín dụng của ngân hàng và còn khá nhiều điểm cần cải thiện. Phân loại nợ theo phương pháp định lượng được quy định tại điều 6 chủ yếu dựa vào tình trạng của khoản nợ, tức là lịch sử việc thanh toán tiền gốc, lãi của khách hàng cho khoản nợ đó theo lịch trả nợ đã thoả thuận khi vay. Mặc dù theo quy định của Điều 6, ngoài tình trạng của từng khoản nợ, các tổ chức tín dụng có thể căn cứ thêm khả năng trả nợ của khách hàng để phân loại nợ. Nhưng vì chưa chuẩn hóa, tự động hóa việc đánh giá này nên trên thực tế các tổ chức tín dụng chỉ căn cứ vào tình trạng trả nợ thực tế. Xét ở khía cạnh này thì việc phân loại nợ theo Điều 6 là tự xếp nhóm khách hàng và sau đó mới tiến hành các thủ tục phân loại nợ sao cho có kết quả trùng khớp với việc xếp nhóm trước đó. Đánh giá các phương pháp phân loại nợ Phân loại nợ theo phương pháp định tính được quy định tại điều 7 sẽ dựa vào kết quả xếp hạng có được từ hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Đây là hệ thống đánh giá khách hàng thông qua chỉ tiêu về quy mô hoạt động, tài chính và phi tài chính để đưa ra kết quả xếp hạng. Hạng của khách hàng phản ánh mức độ rủi ro của chính khách hàng đó có thể tác động đến danh mục cho vay của ngân hàng. Căn cứ vào kết quả này, ngân hàng tiến hành phân loại nợ và ước lượng mức vốn cho vay không thể thu hồi được để trích lập dự phòng rủi 19
- ro tín dụng. Theo đó định kỳ (hàng quý) các khách hàng sẽ được đánh giá và xếp vào 1 hạng nào đó. Hạng cao nhất là AAA (tương ứng với nợ nhóm 1 và thấp nhất là D (tương ứng với nợ nhóm 5). Quy trình chấm điểm được thực hiện như sau: 20
- Sơ đồ 2.1: Quy trình chấm điểm tín dụng Nguồn: Tác giả tự tổng hợp Sự khác biệt về mặt chất giữa phân loại theo phương pháp định tính và phương pháp định lượng chính là hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ. Định nghĩa một cách ngắn gọn, hệ thống này là phương pháp đánh giá toàn diện về sức khỏe của khách hàng, trên cơ sở chấm điểm rất nhiều chỉ tiêu tài chính và phi tài chính, không chỉ có tình trạng trả nợ (như Điều 6) mà còn đánh giá về các thông số tài chính, triển vọng kinh doanh, triển vọng ngành, chất lượng quản lý nội bộ của khách hàng. Nội dung chỉ tiêu và thang điểm được xây dựng trên cơ sở số liệu thống kê thực tế của rất nhiều khách hàng, ý kiến của các chuyên gia nên đảm bảo tính khoa học, đánh giá sát thực và quan trọng là có tính dự báo cáo. Ngoài ra, khi quyết định cấp tín dụng thì các tổ chức tín dụng cũng căn cứ kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ của khách hàng nên việc phân loại nợ trên thực tế đã có ngay từ lúc thẩm định tín dụng chứ không phải chờ đến lúc giải ngân rồi mới phân loại. Điều này sẽ giúp các tổ chức tín dụng chủ động về chất lượng danh mục tín dụng của mình. Mặc dù, phương pháp định tính là phương pháp phân loại nợ tiên tiến, đã 21
- được nhiều ngân hàng lớn trên thế giới áp dụng. Nhưng khi áp dụng tại Việt Nam, phương pháp này còn ẩn chứa nhiều điểm bất cập, dựa nhiều vào đánh giá chủ quan của nhân viên tín dụng trực tiếp thụ lý hồ sơ vay vốn. Vì các thông số quyết định xếp hạng của doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào báo cáo tài chính. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp vay vốn đều là các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, báo cáo tài chính không được kiểm toán. Doanh nghiệp dễ dàng chỉnh sửa báo cáo của mình để phù hợp với kết quả chấm điểm do nhân viên tín dụng yêu cầu. Nếu chưa khắc phục được nhược điểm này thì phương pháp định tính vẫn chưa thể phản ánh được hết rủi ro của khách hàng và nhiều khả năng xảy ra đánh giá sai tình hình hoạt động của khách hàng do phụ thuộc nhiều vào trình độ và đạo đức của nhân viên tín dụng. Kết quả xếp hạng thiếu chính xác đó không chỉ gây ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến việc phân loại nợ, trích lập dự phòng, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của ngân hàng. Do nhược điểm này, đến nay đa số các ngân hàng Việt Nam vẫn chưa áp dụng phương pháp định tính để thực hiện việc phân loại nợ. Một số mô hình nghiên cứu về rủi ro tín dụng: Nghiên cứu của Laeven và Majnoni (2002) Trong bài nghiên cứu của Laeven và Majnoni (2002), tác giả đã sử dụng số liệu các ngân hàng từ 45 quốc gia trong khoảng thời gian 1988-1999 với tổng cộng 1.419 ngân hàng và 8.176 quan sát để chạy mô hình: =+++++ Trong đó: it: là dự phòng rủi ro tín dụng/tổng tài sản của ngân hàng i ở thời điểm t. it: là thu nhập trước thuế và dự phòng/tổng tài sản của ngân hàng i ở thời điểm t. ∆Lit là tăng trưởng tín dụng của ngân hàng i ở thời điểm t 22
- ∆GDPit là tăng trưởng GDP : biến giả theo năm Biến độc lập ở trên là mức độ dự phòng tổn thất nợ được điều chỉnh bởi độ trễ của tổng tài sản. Để kiểm tra mô hình trên, các tác giả đề xuất thêm 1 mô hình khác: =+++++++ Ở công thức này, biến độc lập được thêm vào các biến điều chỉnh độ trễ. Ưu điểm của công thức là đo lường tác động của các biên lên các khoản dự phòng thất thoát nợ cho vay có tính đến tác động của độ trễ. Điều này giảm ảnh hưởng của các biến bị bỏ sót và tập trung phân tích tác động của các biến trên lên các khoản dự phòng thất thoát nợ cho vay. Kết quả cho thấy: không như giả thuyết, thu nhập ngân hàng có quan hệ thuận chiều với dự phòng rủi ro tín dụng, tăng trưởng GDP và tăng trưởng tín dụng có quan hệ ngược chiều với dự phòng rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa lợi nhuận ngân hàng và dự phòng rủi ro tín dụng được kỳ vọng sẽ không giống nhau ở các quốc gia khác nhau do quy định về kế toán, kỳ hạch toán và tính thận trọng. Để phân tích điều này, tác giả đã chạy hồi quy cho các ngân hàng tách biệt nhau theo khu vực địa lý. Vì vậy, số liệu thu thập được chia thành 5 vùng: Châu Âu, nước Mỹ, nước Nhật, Khu vực châu Mỹ - Latin và Châu Á (khu vực Đông Nam Á tác giả chỉ chọn Thái Lan và Indonesia). Kết quả cho thấy chỉ có Châu Á cho ra kết quả quan hệ nghịch chiều giữa thu nhập ngân hàng và dự phòng rủi ro tín dụng. 2 kết quả khác tương tự kết quả tìm được ở trên. Nghiên cứu của Jimenez và Saurina (2006) Jimenez và Saurina (2006) nghiên cứu rủi ro tín dụng của các ngân hàng Tây Ban Nha, sử dụng dữ liệu theo năm của các ngân hàng báo cáo lên Trung tâm đăng ký tín dụng ngân hàng Tây Ban Nha giai đoạn 1984-2002. Tác giả 23