Luận án Nghi lễ vòng đời của người Dao Quần Chẹt ở huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Nghi lễ vòng đời của người Dao Quần Chẹt ở huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
File đính kèm:
- luan_an_nghi_le_vong_doi_cua_nguoi_dao_quan_chet_o_huyen_ba.pdf
Nội dung text: Luận án Nghi lễ vòng đời của người Dao Quần Chẹt ở huyện Ba Vì, Thành phố Hà Nội
- BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI VŨ THỊ UYÊN NGHI LỄ VÒNG ĐỜI CỦA NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT Ở HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC HÀ NỘI, 2017
- BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI VŨ THỊ UYÊN NGHI LỄ VÒNG ĐỜI CỦA NGƯỜI DAO QUẦN CHẸT Ở HUYỆN BA VÌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Văn hóa học Mã số: 62310640 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Văn Bình HÀ NỘI, 2017
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS.Trần Văn Bình. Các số liệu, tài liệu nêu ra trong luận án là kết quả điều tra thực địa và thu thập tư liệu của tác giả luận án. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Nghiên cứu sinh Vũ Thị Uyên
- 1 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC 1 DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT 2 MỞ ĐẦU 3 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI DAO QUẦN CHẸT Ở BA VÌ 10 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 10 1.2. Những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài 21 1.3. Cơ sở lý thuyết 25 1.4. Khái quát về người Dao ở Ba Vì, Hà Nội 30 Tiểu kết 43 Chƣơng 2: NGHI LỄ VÕNG ĐỜI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƢỜI DAO QUẦN CHẸT Ở BA VÌ 45 2.1. Nghi thức, cách thức tổ chức các nghi lễ 45 2.2. Đặc điểm nghi lễ vòng đời truyền thống 73 2.3. So sánh nghi lễ vòng đời của người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì và người Dao Quần Chẹt ở địa phương khác 81 Tiểu kết 85 Chƣơng 3: CHỨC NĂNG, GIÁ TRỊ NGHI LỄ VÕNG ĐỜI CỦA NGƢỜI DAO QUẦN CHẸT Ở BA VÌ 87 3.1. Chức năng của nghi lễ vòng đời người Dao Quần Chẹt 87 3.2. Giá trị của nghi lễ vòng đời 107 Tiểu kết 118 Chƣơng 4: NGHI LỄ VÕNG ĐỜI CỦA NGƢỜI DAO QUẦN CHẸT Ở BA VÌ TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY 119 4.1. Biến đổi nghi lễ vòng đời của người Dao Quần Chẹt 119 4.2. Nguyên nhân biến đổi 130 4.3. Một số vấn đề đặt ra với nghi lễ vòng đời của người Dao Quần Chẹt hiện nay 137 Tiểu kết 145 KẾT LUẬN 147 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 PHỤ LỤC 164
- 2 DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ CNH – HĐH Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa DQC Dao Quần Chẹt ĐH Đại học GS Giáo sư GS.TS Giáo sư, Tiến sĩ HTX Hợp tác xã KHXH Khoa học xã hội KHXH & NV Khoa học xã hội và nhân văn KT – XH Kinh tế - xã hội Nxb Nhà xuất bản NCS Nghiên cứu sinh NLVĐ Nghi lễ vòng đời TW Trung ương UBND Ủy ban nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa
- 3 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nghi lễ vòng đời (NLVĐ) là thành tố quan trọng trong hệ thống tổng thể văn hóa tộc người. Những nghi lễ đó chẳng những góp phần tạo ra các chuẩn mực xã hội, mà còn phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan và đóng góp lớn vào việc khẳng định bản sắc văn hóa tộc người. Vì thế, muốn hiểu biết sâu sắc, toàn diện văn hóa của các dân tộc thiểu số nói chung và của cộng đồng người Dao Quần Chẹt (DQC) ở Ba Vì, Hà Nội nói riêng, nghiên cứu NLVĐ là một việc làm cần thiết. Trong những năm gần đây, nghiên cứu văn hóa truyền thống, cũng như biến đổi văn hóa của dân tộc Dao ở Việt Nam, và NLVĐ của tộc người này, đã được nhiều bộ môn khoa học quan tâm. Trong đó đáng chú ý nhất là những nghiên cứu của Dân tộc học, Nhân học văn hóa - xã hội, Văn hóa học, Tuy vậy, những vấn đề vừa nêu trên của cộng đồng người DQC ở Ba Vì, Hà Nội, cho đến nay vẫn chưa được giới nghiên cứu quan tâm đúng mức. Trong khi đó, mặc dù là một bộ phận của dân tộc Dao ở Việt Nam nhưng người DQC ở Ba Vì, Hà Nội lại có những hoàn cảnh sinh tồn rất đặc biệt so với đồng tộc của họ đang cư trú ở các địa phương khác, nhất là ở các tỉnh miền núi. Có thể kể đến đó là việc họ hạ sơn rất sớm; xen cư trong một địa bàn mà cư dân ở đó chủ yếu là người Mường, người Kinh (Việt); trước năm 2007 địa bàn cư trú của họ chỉ cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng trên 60km; hiện nay chính địa bàn đó lại thuộc về Hà Nội; Hoàn cảnh đặc biệt này chắc chắn sẽ tác động không nhỏ đến toàn bộ đời sống của họ, trong đó có đời sống văn hóa, nhất là văn hóa truyền thống và NLVĐ. Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, văn hóa của người DQC trong đó có NLVĐ đang có nhiều biến đổi. Điều này sẽ dẫn đến nguy cơ mai một văn hóa tộc người. Đối với cộng đồng người DQC hiện nay, hàng loạt vấn đề đang đặt ra, cần được nghiên cứu, làm sáng tỏ. Đó là: giao tiếp văn hóa giữa họ với cộng đồng người Mường, người Kinh (Việt) cùng cộng cư đã và đang diễn ra như thế nào, hệ quả của quá trình giao tiếp đó là gì; văn hóa truyền thống của họ đã biến đổi và
- 4 thích ứng như thế nào trong môi trường sinh sống khá đặc biệt; đô thị hóa ở Ba Vì có ảnh hưởng gì tới việc gìn giữ văn hóa truyền thống, và bản sắc văn hóa tộc người của họ; các chuẩn mực truyền thống mang tính xã hội, trong đó NLVĐ chịu tác động, thích ứng và biến đổi thế nào trong một hoàn cảnh sống đặc biệt, luôn thay đổi; Những vấn đề trên được làm sáng tỏ, chắc chắn sẽ đóng góp rất lớn vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH) ở Ba Vì, Hà Nội nói chung, và bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa DQC ở Ba Vì nói riêng. Đó chính là những đòi hỏi của thực tiễn, đang đặt ra cho khoa học hiện nay. Bởi thế, nghiên cứu người DQC ở Ba Vì trong đó có nghiên cứu NLVĐ của họ đang là đòi hỏi thực tiễn hiện nay đối với ngành khoa học xã hội và nhân văn (KHXH & NV), trong đó có Văn hóa học. Với những lý do trên, nghiên cứu sinh (NCS) chọn Nghi lễ vòng đời của người Dao Quần Chẹt ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội làm đề tài Luận án tiến sĩ chuyên ngành Văn hóa học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về NLVĐ truyền thống của người DQC để làm rõ sự đa dạng văn hóa dân tộc Dao thông qua việc tìm hiểu, ở một nhóm địa phương. Trên cơ sở đó, nhận thức đúng sự biến đổi và các vấn đề đặt ra hiện nay đối với NLVĐ của người DQC, góp phần nâng cao hiệu quả việc bảo tồn, phát huy các giả trị văn hóa truyền thống. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu về tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái quát môi trường sinh sống (tự nhiên, xã hội), văn hóa tộc người, liên quan tới các NLVĐ của người DQC ở Ba Vì. - Nghiên cứu các NLVĐ truyền thống của người DQC - Nghiên cứu chức năng, giá trị NLVĐ truyền thống của người DQC - Tìm hiểu những biến đổi và nguyên nhân của những biến đổi NLVĐ
- 5 - Xác định những vấn đề đặt ra hiện nay đối với NLVĐ của người DQC ở huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu các nghi lễ: sinh đẻ, cưới xin, cấp sắc và tang ma của người DQC ở huyện Ba Vì, Hà Nội. Đây là những nghi lễ cơ bản, quan trọng bậc nhất trong cuộc đời mỗi người DQC, chúng góp phần khẳng định rõ bản sắc văn hóa tộc người của họ. Nội dung cụ thể: hệ thống nghi thức, cách thức tổ chức các nghi lễ, đặc điểm NLVĐ truyền thống của người DQC, chức năng, giá trị, sự biến đổi và những nguyên nhân dẫn đến biến đổi, Để hiểu rõ hơn đối tượng nghiên cứu chính, văn hóa tộc người và một số vấn đề khác của cộng đồng người DQC ở Ba Vì, cũng sẽ được xem xét, đề cập trong quá trình hoàn thành luận án. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian Địa bàn nghiên cứu chính của luận án là xã Ba Vì, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, nơi sinh sống của người DQC - cộng đồng tộc người mà luận án đề cập. Cụ thể là các thôn: Hợp Nhất, Hợp Sơn và Yên Sơn. Đây cũng là 3 thôn duy nhất có người DQC cư trú ở Ba Vì. Về thời gian Luận án tập trung nghiên cứu NLVĐ truyền thống, và hiện trạng của chúng hiện nay. Trong đó, truyền thống được xác định là mốc thời gian từ 1986 (thời điểm bắt đầu công cuộc Đổi Mới) trở về trước. Hiện nay, được xác định từ sau 1986 trở lại đây. Tuy nhiên, để khảo sát rõ hơn sự biến đổi, luận án đặc biệt chú ý thời điểm trước và sau khi Ba Vì sáp nhập Hà Nội (2008). Chú ý mốc thời gian 2008, bởi khi Ba Vì trở thành một phần của thủ đô Hà Nội đến nay, những thay đổi đang diễn ra
- 6 với quy mô và nhịp độ mạnh mẽ. Nhiều chính sách kinh tế, văn hóa, xã hội được đầu tư tại Ba Vì trong đó quan trọng nhất là hệ thống điện lưới quốc gia được triển khai trong toàn xã. Từ đó, các phương tiện thông tin đại chúng được phổ biến rộng rãi tới người DQC. Những luồng văn hóa mới nhanh chóng thâm nhập và được người DQC tiếp thu, nhất là thế hệ trẻ. Vì vậy, văn hóa của họ có những biến đổi rõ nét. Tuy nhiên, ở mọi thời điểm, văn hóa tộc người cũng như các NLVĐ, luôn luôn biến đổi, thích ứng để phù hợp với môi trường sống của chủ thể sáng tạo ra nó. Truyền thống luôn luôn thích ứng với hoàn cảnh mới, và biến đổi cúng luôn xuất hiện, rồi lại được tộc người hóa, truyền thống hóa, Vì vậy, sự phân chia truyền thống, biến đổi, và việc phân chia mốc thời gian, cũng chỉ mang tính tương đối. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Phương pháp điền dã dân tộc học: là phương pháp chủ đạo được nghiên cứu sinh (NCS) sử dụng để thu thập tư liệu hoàn thiện luận án. Trong thời gian từ năm 2013 đến 2017, NCS đã có hơn chục cuộc điền dã tại 3 thôn Hợp Nhất, Hợp Sơn và Yên Sơn của xã Ba Vì để điều tra, khảo sát thu thập tư liệu. Do địa bàn nghiên cứu chỉ cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng hơn 60km, đường xá và phương tiện đi lại đều rất thuận lợi nên NCS không lưu trú dài ngày tại địa bàn mà thực hiện những cuộc khảo sát nhỏ, thời gian tối đa khoảng 1 tuần và tối thiểu từ 1 - 2 ngày. Trong những cuộc điền dã đó, NCS sử dụng các kỹ thuật chủ yếu: quan sát tham dự, phỏng vấn - hỏi chuyện, ghi âm, ghi chép, vẽ, chụp ảnh, Về quan sát tham dự, NCS đã trực tiếp tham gia vào các nghi lễ đặc biệt là nghi lễ liên quan đến sinh đẻ, cưới xin, cấp sắc và tang ma của người DQC ở Ba Vì. NCS quan sát cách thức mọi người chuẩn bị nghi lễ, thầy cúng hành lễ, thái độ của những người tham dự nghi lễ và đặc biệt là người thụ lễ, Qua quá trình này, NCS đã thu thập được những thông tin cơ bản về trình tự nghi lễ, thái độ, hành vi của người thụ lễ và những người liên quan. Dữ liệu này sẽ làm sáng tỏ hơn cho những tư liệu có được từ phỏng vấn sâu. Tuy nhiên, chỉ quan sát tham dự không thể hiểu rõ ý nghĩa của các nghi lễ. Hơn nữa, có những nghi lễ người dân không muốn có sự
- 7 hiện diện của nhà nghiên cứu (tang ma). Việc tham dự nghi lễ hoàn toàn phụ thuộc vào thời gian các gia đình tổ chức, do vậy có những nghi lễ NCS không thể tham dự toàn diện. Để tái hiện lại những gì đã quan sát được, NCS sử dụng các kỹ thuật ghi chép, ghi âm, quay phim, chụp ảnh, về toàn bộ các thực hành của NLVĐ. Những tư liệu ảnh và video sẽ giúp người đọc dễ hình dung, tăng tính hiệu quả cho luận án. Bên cạnh quan sát tham dự, NCS đã tiến hành phỏng vấn sâu những người hiểu biết về phong tục tập quán như: những người cao tuổi, thầy cúng để có bức tranh toàn diện về NLVĐ. Thông tin thu được từ phỏng vấn hồi cố giúp NCS so sánh sự giống và khác nhau giữa NLVĐ trước đây và hiện nay để đánh giá sự biến đổi. Đối với từng nghi lễ NCS lựa chọn phỏng vấn những người cung cấp thông tin khác nhau dựa vào lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp nhằm thu được thông tin đa chiều. Với nghi lễ sinh đẻ, NCS chú trọng phỏng vấn những phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ (từ 18 đến 40), các bà lang, cán bộ y tế thôn xã, để có những thông tin về phong tục tập quán và nghi lễ trong giai đoạn mang thai và sinh nở. Với nghi lễ cưới xin, ngoài phỏng vấn những người lớn tuổi để có tư liệu hồi cố về nghi lễ trong truyền thống, NCS còn chú trọng đến những người trong độ tuổi kết hôn (18 đến 35). Riêng lễ cấp sắc và tang lễ, NCS chú trọng phỏng vấn thầy cúng - những người trực tiếp thực hành các nghi lễ. Trong các đợt điền dã, NCS đã phỏng vấn hơn 70 thông tín viên trong đó có 15 thầy cúng, 9 cán bộ xã, còn lại là những người DQC ở nhiều độ tuổi khác nhau. Khi phỏng vấn, NCS thường chuẩn bị trước bảng câu hỏi để phù hợp với đối tượng nghiên cứu và đối tượng phỏng vấn. Tuy nhiên, trong quá trình phỏng vấn, các câu hỏi được sử dụng linh hoạt nhằm thu thập được nhiều thông tin nhất có thể. Việc phỏng vấn cũng được tiến hành linh hoạt, có lúc phỏng vấn chính thức bằng cách nói rõ cho người được phỏng vấn về mục đích nghiên cứu của mình. Song cũng có lúc NCS tiến hành phỏng vấn phi chính thức để có thông tin đa chiều.
- 8 Mặt khác, NCS cũng tiến hành thảo luận nhóm tập trung để kiểm định thông tin và bước đầu có những con số định lượng thông tin thu thập. NCS đã tiến hành thảo luận 3 nhóm, mỗi nhóm từ 8 đến 15 người. Nhóm thứ nhất bao gồm những cán bộ xã để lấy thông tin về các chủ trương chính sách và vấn đề bảo tồn văn hóa. Nhóm thứ 2 bao gồm các thầy cúng và những người cao tuổi để kiểm chứng thông tin về các nghi lễ. Nhóm 3 là những người trong độ tuổi thanh niên để biết về thái độ của lớp trẻ với việc tiếp cận văn hóa mới và bảo tồn văn hóa truyền thống. Phương pháp so sánh: được NCS sử dụng để làm nổi bật những khác biệt trong NLVĐ của người DQC ở Ba Vì với nhóm DQC ở các địa phương như Hòa Bình, Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái, và các nhóm Dao khác. Ngoài ra NCS còn so sánh NLVĐ trong truyền thống và hiện nay để tìm ra sự biến đổi của chúng. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu: Trong quá trình chuẩn bị và hoàn thiện luận án, NCS đã tiến hành thu thập những tài liệu về người Dao đặc biệt là người DQC ở Việt Nam để có cái nhìn tổng quát về vấn đề nghiên cứu. Bên cạnh đó NCS cũng tìm đọc những tài liệu về người DQC ở Ba Vì, kế thừa những nghiên cứu đi trước, xác định những khoảng trống trong nghiên cứu để có hướng đi thích hợp cho luận án. Ngoài ra, NCS cũng thu thập những bản báo cáo tổng kết về tình hình KT - XH ở Ba Vì qua các năm cũng như các chính sách liên quan đến vùng người DQC ở Ba Vì để có cứ liệu đưa ra phân tích, đánh giá một cách khách quan. 5. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu NLVĐ truyền thống của người DQC ở Ba Vì có những đặc điểm gì? NLVĐ có chức năng, giá trị gì trong đời sống của người DQC ở Ba Vì? Trong bối cảnh hiện nay ở Ba Vì, NLVĐ của người DQC biến đổi như thế nào? Những vấn đề đặt ra đối với NLVĐ của người DQC hiện nay, là gì? Giả thuyết nghiên cứu chúng tôi đưa ra là NLVĐ của người DQC ở Ba Vì có nhiều điểm khác biệt so với người DQC ở các địa phương khác. Điều đặc biệt này do quá trình hạ sơn tương đối sớm, sự giao tiếp văn hóa với người Kinh và người Mường trên cùng địa bàn. Trong quá trình đô thị hóa hiện nay, NLVĐ của
- 9 người DQC biến đổi theo xu hướng tiếp thu những yếu tố văn hóa của người Kinh. Vì vậy, vấn đề bảo tồn văn hóa của người DQC trong bối cảnh hiện nay cần phải có sự quan tâm và đầu tư của các cấp, ngành. 6. Đóng góp của luận án Luận án cung cấp nguồn dữ liệu góp phần hoàn thiện bức tranh tổng thể và sinh động về NLVĐ của người Dao nói chung và người DQC ở Ba Vì nói riêng. Luận án tìm ra và phân tích những đặc điểm, đặc trưng trong NLVĐ của người DQC, từ đó góp phần khẳng định bản sắc văn hóa của người DQC ở Ba Vì. Luận án phân tích sự biến đổi của NLVĐ người DQC ở Ba Vì để thấy được xu hướng vận động của các NLVĐ trong bối cảnh hòa nhập, hiện đại hóa, công nghiệp hóa hiện nay. Từ đó, luận án phân tích những vấn đề đặt ra với NLVĐ người DQC Kết quả đó sẽ góp phần làm sáng tỏ và khẳng định những luận điểm cơ bản của lý thuyết biến đổi, thích ứng văn hóa và sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích đối với việc hoạch định các chủ trương, chính sách liên quan đến phát triển KT - XH, bảo tồn bản sắc văn hóa DQC ở Ba Vì, Hà Nội. 7. Nội dung, bố cục của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, và Phụ lục, nội dung chính của luận án được trình bày trong 4 chương: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và khái quát về người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì Chương 2: Nghi lễ vòng đời truyền thống của người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì Chương 3: Chức năng, giá trị nghi lễ vòng đời của người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì Chương 4: Nghi lễ vòng đời của người Dao Quần Chẹt ở Ba Vì trong bối cảnh hiện nay
- 10 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI DAO QUẦN CHẸT Ở BA VÌ 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Những nghiên cứu nghi lễ vòng đời của người Dao ở Việt Nam Người Dao ở Việt Nam là một trong các tộc người thiểu số được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Thời kỳ Pháp thuộc do nhu cầu đặt ách cai trị, nhiều linh mục, sĩ quan, nhà nghiên cứu tích cực nghiên cứu các dân tộc ít người, trong đó có người Dao. Đã có một số học giả người Pháp nghiên cứu về người Dao như L.Tharand, Auguste Bonifacy, trong đó phải kể đến Auguste Bonifacy - một sĩ quan Pháp với nghiên cứu Một cuộc công cán ở vùng người Mán từ tháng mười 1901 đến cuối tháng giêng 1902 [7] Trong nghiên cứu này, ông đã mô tả khá sinh động, hấp dẫn về đời sống văn hóa của một số “bộ lạc” Dao quần cộc, Đại bản như nhà cửa, trang phục, phương thức mưu sinh, phong tục tập quán, tổ chức xã hội, tôn giáo, văn học, nghệ thuật Có thể nói đây là một nghiên cứu nghiêm túc, phương pháp điền dã với kỹ thuật quan sát tham dự được sử dụng hiệu quả, đặc biệt phần mô tả khá hấp dẫn. Tuy nhiên, phần giới thiệu về phong tục tập quán tác giả mới chỉ đề cập đến hôn nhân, các phong tục tập quán khác trong NLVĐ và đặc biệt phần nghi lễ chưa được chú ý. Trong Hội thảo Quốc tế lần thứ VII (tháng 12 năm 1995) về người Dao được tổ chức tại Thái Nguyên [87], có 2 bài tham luận của tác nước ngoài về người Dao ở Việt Nam đó là: Mấy vấn đề về người Dao di cư vào Việt Nam của tác giả người Trung Quốc Trương Hữu Tuấn đề cập đến thời gian, con đường và nguyên nhân người Dao di cư vào Việt Nam. Tham luận thứ hai Khái quát về di sản văn hóa Dao và hiện đại hóa ở Việt Nam của tác giả người Pháp Jacques Lemoine bàn về vấn đề bản sắc với hai nội dung chính: Những dấu ấn về bản sắc của người Dao ở Việt Nam từ nguồn gốc, lễ hội - tôn giáo, nhà ở, trang phục, phong tục, vấn đề bản sắc dân tộc Dao trong phát triển và hiện đại hóa. NLVĐ chưa được đề cập, chỉ xuất hiện một vài nhận định nhỏ về phong tục tập quán liên quan đến NLVĐ.
- 11 Đối với nghiên cứu của các tác giả Việt Nam, ngay từ thời phong kiến, trong tác phẩm Kiến văn tiểu lục (1977), tác giả Lê Quý Đôn đã đề cập đôi nét về các tộc người thiểu số Việt Nam. Khi nói về xứ Tuyên Quang, tác giả nói đến 7 chủng tộc người Man nhưng chỉ đề cập đến văn hóa vật chất như: mặc áo chàm xanh, tay áo rộng, hoặc áo màu trắng, để tóc dài, búi tóc nhọn, , cắt tóc chít khăn vải hoa, áo xanh, quần vắn, [27, tr.134]. NLVĐ chưa được tác giả nói đến. Năm 1778, tác giả Hoàng Bình Chính viết tác phẩm Hưng hóa xứ phong thổ lục [13] đề cập sơ lược đến nhóm người Mán có mặt tại Châu Thủy Vĩ (Lào Cai) và Châu Văn Bàn, do dung lượng có hạn, tác phẩm chưa miêu tả cụ thể về NLVĐ của nhóm người này. Năm 1856 tác phẩm Hưng hóa ký lược của Phạm Thận Duật [109] ra đời có đề cập đến người Dao ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Trong mục phong tục tập quán, ông có đề cập đến người Mán Sừng Đỏ (Dao Đỏ), người Mán Đạn Tiên (Dao Làn Tẻn), người Sơn Tạng nhưng chưa đề cập đến NLVĐ của các nhóm này. Như vậy, thời kỳ phong kiến, một số tác giả nghiên cứu đã đề cập đến người Dao nhưng chỉ dừng lại ở việc khái quát một vài nét về phong tục tập quán. Vấn đề NLVĐ chưa được quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, đây cũng là nguồn sử liệu quan trọng để tìm hiểu về thời gian di cư, địa bàn cư trú của người Dao ở Việt Nam. Cuối những năm 50, đầu những năm 60 của Thế kỷ XX, ngành Dân tộc học với tư cách là một khoa học độc lập ra đời. Công tác nghiên cứu về các tộc người trong đó có người Dao được đẩy mạnh nhằm mục đích xác định thành phần dân tộc. Từ đó đến nay đã xuất hiện nhiều công trình mang tính khái quát về người Dao ở Việt Nam như: Người Dao ở Việt Nam của tác giả Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến [24]; Văn hóa truyền thống của người Dao ở Hà Giang (1999) do Phạm Quang Hoan và Hùng Đình Quý (chủ biên) [36]; Một số vấn đề người Dao Quảng Ninh (1999) của Nguyễn Quang Vinh [121]; Phong tục tập quán người Dao Thanh Hóa (2001) của Đào Thị Vinh [120]; Người Dao (2004) của Chu Thái Sơn (chủ biên) [77]; Văn hóa người Dao ở Hòa Bình (2014) của tác giả Bùi Chí Thanh [96]; Người Dao Quần Chẹt ở Trung Du đồng bằng Bắc Bộ
- 12 (2015) của Nguyễn Ngọc Thanh (chủ biên) [99]; Với phương pháp điền dã dân tộc học, các tác giả đã cung cấp cho người đọc những tư liệu phong phú về nhiều mặt trong đời sống của người Dao ở các địa phương như: nguồn gốc lịch sử, dân số, đặc điểm KT - XH, phong tục tập quán, NLVĐ chưa được chú trọng nghiên cứu chuyên sâu mà chủ yếu chỉ mô tả chung trong phong tục tập quán của người Dao. Tuy nhiên, những công trình ấy cũng cho chúng tôi thấy được sự đa dạng trong NLVĐ của người Dao, là tư liệu để so sánh với người DQC ở Ba Vì. Trong những công trình kể trên, đáng chú ý là cuốn Người Dao ở Việt Nam của tác giả Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến, . Với nguồn tư liệu phong phú, chính xác, cụ thể, các tác giả đã mô tả khá chi tiết về người Dao, các hình thái kinh tế, sinh hoạt vật chất, sinh hoạt xã hội, văn học nghệ thuật, tri thức dân gian, Đáng chú ý NLVĐ được giới thiệu trong chương 5 – “Một số tục lệ chủ yếu trong đời sống của người Dao” do tác giả Nguyễn Khắc Tụng và Nông Trung viết với 4 tục lệ: sinh đẻ và nuôi con, cưới xin, làm nhà mới, ma chay. Tuy nhiên, phần nghi lễ chưa được tìm hiểu kỹ lưỡng. “Tục cấp sắc” được tác giả Nguyễn Nam Tiến giới thiệu trong chương 6 - tôn giáo, tín ngưỡng. Năm 2014, tác giả Bùi Chí Thanh xuất bản cuốn Văn hóa người Dao Quần Chẹt ở Hòa Bình. Cuốn sách là sự tổng hợp nghiên cứu trong nhiều năm của tác giả tại các vùng có người DQC sinh sống trong tỉnh Hòa Bình như Đà Bắc, Kỳ Sơn, Mai Châu, Lương Sơn, Cao Phong, Trong phần hệ thống nghi lễ theo chu kỳ vòng đời người, tác giả giới thiệu về nghi lễ nam hoa, lễ cưới, lễ cấp sắc, tang lễ và lễ tạ mả. Nghi lễ tạ mả được sắp xếp trong NLVĐ có phần không chính xác vì đây không phải là nghi lễ mà tất cả người Dao đều phải trải qua. Nó là một nghi lễ liên quan đến việc tách nhà tổ của người DQC. Vì vậy, nếu tác giả xếp vào phần tôn giáo, tín ngưỡng sẽ hợp lý hơn. Cuốn sách cũng mới chỉ dừng lại ở sự mô tả dân tộc học mà chưa đi sâu tìm hiểu ý nghĩa của việc thực hành các nghi lễ. Tuy nhiên đây cũng là một tư liệu để so sánh với người DQC ở Ba Vì trong quá trình thực hiện luận án. NLVĐ được tách thành nghiên cứu riêng trong cuốn “Người Dao Quần Chẹt ở Trung du đồng bằng Bắc Bộ” của Nguyễn Ngọc Thanh (chủ biên). Tuy nhiên, tác
- 13 giả chỉ giới thiệu 3 nghi lễ chính: sinh đẻ, cưới xin, tang ma. Nghi lễ cấp sắc được xếp vào phần văn hóa tinh thần. Với nguồn tư liệu phong phú từ điền dã dân tộc học, nhóm tác giả đã có những phân tích khái quát nhất về NLVĐ của nhóm DQC. Các phong tục tập quán liên quan cũng được nghiên cứu để làm sáng tỏ NLVĐ. Cuốn sách là tư liệu có giá trị để so sánh với NLVĐ của người DQC ở Ba Vì. Tuy nhiên, do đây là công trình chuyên khảo tổng thể về người DQC ở miền núi Trung du Bắc bộ nên NLVĐ cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ mô tả khái quát. Một số nghi lễ chưa có sự giải thích thỏa đáng. Nghiên cứu chuyên sâu về các nghi lễ trong hệ thống NLVĐ cũng nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà khoa học. Đã có khá nhiều công trình được công bố dưới dạng sách chuyên khảo, bài tạp chí, tham luận, luận án, luận văn, Một số công trình tiêu biểu phải kể đến: Những nghi lễ chủ yếu trong chu kỳ đời người của nhóm Dao Tiền ở Ba Bể, Bắc Kạn của tác giả Lý Hành Sơn [80], Nghi lễ trong việc cưới, việc tang của người Dao Khâu ở Lai Châu của tác giả Tẩn Kim Phu [69], luận văn thạc sĩ: Lễ cấp sắc và tang ma của người Dao Tuyển ở huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai của tác giả Hà Thị Thuận [104]. Luận án Nghi lễ vòng đời của người Dao Thanh Y ở huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà [32], Các công trình kể trên đã khái quát được NLVĐ của một số nhóm Dao, nhiều thực hành nghi lễ đã được giải thích rõ. Đây là nguồn tư liệu giúp NCS so sánh để làm rõ đặc trưng văn hóa trong NLVĐ của người DQC ở Ba Vì. Trong số những công trình kể trên, đáng chú ý có Những nghi lễ chủ yếu trong chu kỳ đời người của nhóm Dao Tiền ở Ba Bể, Bắc Kạn. Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách kỹ lưỡng và có hệ thống về nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Dao nói chung cũng như người Dao Tiền ở Ba Bể nói riêng. Với cách tiếp cận theo hướng dân tộc học, tác giả mô tả, phân tích và đưa ra kết luận: “Trong một chu kỳ đời người, các nghi lễ sinh đẻ và nuôi con, cấp sắc, cưới xin và tang ma là những nghi lễ chủ yếu, bởi vì một mặt chúng đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong từng giai đoạn phát triển của con người, mặt khác mỗi người trong cuộc đời của mình nhất thiết phải trải qua một lần. Tuy có sự khác nhau về ý nghĩa
- 14 xã hội và nghi thức tiến hành nhưng nội dung cốt lõi của các nghi lễ trên đều thể hiện mối quan hệ giữa thế hệ trước với thế hệ sau, giữa cá nhân với cộng đồng và đều thông qua phong tục tập quán được coi là bảng giá trị trong đời sống tộc người” [80, tr.273 - 274]. Thông qua việc nghiên cứu các nghi lễ nói trên , tác giả đã làm nổi bật được sắc thái địa phương, tính thống nhất và đa dạng trong văn hoá Dao. Đây chính là cơ sở khoa học để phát huy những mặt tích cực, hạn chế các mặt tiêu cực của các nghi lễ trong việc xây dựng nếp sống mới ở vùng người Dao Tiền. Luận án tiến sĩ Nhân học Nghi lễ vòng đời của người Dao Thanh Y ở huyện Hoành Bồ tỉnh Quảng Ninh cũng phân tích kỹ lưỡng trình tự các nghi lễ sinh đẻ, chăm sóc và nuôi dạy con, nghi lễ cấp sắc, nghi lễ hôn nhân và nghi lễ tang ma; những biến đổi của nó trong bối cảnh hiện nay. Mục đích đề ra của luận án là tìm hiểu những đặc trưng văn hóa của người Dao Thanh Y qua NLVĐ nhưng luận án mới chỉ dừng lại ở việc mô tả, phân tích những nghi lễ riêng lẻ, chưa thực sự có tổng hợp xác đáng để làm nổi bật các đặc trưng văn hóa. Tuy nhiên, với sự phân tích kỹ lưỡng dựa trên tư liệu điền dã dân tộc học, luận án cũng là một nguồn tài liệu có giá trị giúp NCS so sánh với nhóm DQC trong quá trình thực hiện luận án. Nghiên cứu về NLVĐ người Dao chủ yếu là các công trình nghiên cứu riêng lẻ về một nghi lễ trong tổng thể NLVĐ. - Nghiên cứu về nghi lễ sinh đẻ Nghiên cứu về nghi lễ sinh đẻ của người Dao phải kể đến các công trình: Một số kiêng kỵ và tục lệ liên quan đến sinh đẻ của người Dao Tả Pan và Dao Áo Dài ở Hà Giang của tác giả Hoàng Lương [87]; Tập quán chăm sóc thai sản và đặt tên con của người Dao Đỏ ở Lào Cai của Đào Huy Khuê, Triệu Thanh Vương (2005) [44]; Tập quán chăm sóc sức khỏe sinh sản của người Dao ở Yên Bái của tác giả Nguyễn Hữu Nhân, Hà Thị Phương Tiến (2004) [66]; Tập quán sinh đẻ và chăm sóc sức khỏe của người Dao Quần Chẹt ở xã Tu Lý, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình của tác giả Nguyễn Thị Minh Nguyệt (2000) [67]; Tập quán sinh đẻ của người Dao Tiền ở Ba Bể, Bắc Kạn của tác giả Lý Hành Sơn (1997) [78]; Trong những công trình kể trên, các tác giả đi sâu nghiên cứu về các phong tục tập quán liên quan đến
- 15 sinh đẻ (từ khi phụ nữ có thai đến lúc đứa trẻ chào đời), những tập tục trong quá trình nuôi dạy con cái. Tuy nhiên, phần nghi lễ chưa được nghiên cứu sâu. - Nghiên cứu về nghi lễ trong hôn nhân: Hôn nhân của người Dao cũng là vấn đề nhận được khá nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Tiêu biểu như: Đám cưới người Dao của Mộng Đắc [22]; Lễ cưới người Dao Nga Hoàng của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng [39]; Đám cưới người Dao Tuyển Lào Cai của tác giả Trần Hữu Sơn [84]; tác giả Vũ Tuyết Lan với 1 số bài viết về hôn nhân của người Dao Quần Chẹt đăng trên tạp chí Dân tộc học như: Các nghi lễ trong hôn nhân của người Dao Quần Chẹt (trường hợp ở xã Yên Đôn, huyện Thanh Sơn, Phú Thọ), Quan niệm truyền thống về hôn nhân của người Dao Quần Chẹt, Một số biến đổi trong hôn nhân của người Dao Quần Chẹt ở xóm Mạ, xã Tu Lý, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình [48, 49, 50], Qua những công trình nghiên cứu này, phong tục tập quán và nghi lễ trong hôn nhân của các nhóm Dao được khắc họa tương đối rõ nét. Đây là những tư liệu có giá trị để so sánh trong quá trình chúng tôi thực hiện luận án. Trong những tác phẩm viết về hôn nhân đáng chú ý có “Đám cưới người Dao Tuyển” của Trần Hữu Sơn (2011). Tác giả tiếp cận lễ cưới ở nhiều góc độ khác nhau từ nghi lễ, nghệ thuật âm nhạc, nghệ thuật ngôn từ đến nghệ thuật trang trí Đặc biệt, tác giả cũng nghiên cứu khá kỹ về thơ ca dân gian trong đám cưới của người Dao Tuyển. Tác giả kết luận: “Lễ cưới người Dao Tuyển còn phản ánh địa bàn cư trú xa xưa của người Dao Tuyển đến Việt Nam. Trong dân ca lễ cưới người Dao Tuyển có kể về các chợ Dương Châu, chợ ở Phú Quang, Châu Quế Các địa danh này đều là địa bàn sinh sống của người Dao. Đó là vùng Chiết Giang, Giang Tô, Giang Tây (Phủ Quảng), Quế Lâm (Châu Quế) Trung Quốc. Đáng chú ý, những sự tích, huyền thoại trong đám cưới người Dao Tuyển kể nhiều về địa danh đảo Hải Nam” [84, tr. 114]. Dấu ấn của tục đón dâu bằng thuyền còn đậm nét. Hai ông Chưởng Phán, Bù Lạy dẫn đầu đoàn đón dâu nhà trai đều cầm ô - biểu tượng của thuyền. Chiếc hòm đan đựng lễ vật cũng gọi là “hồng thuyền” (thí đang). Nội dung các bài hát giao tiếp giữa nhà trai và nhà gái đều đề cập đến con thuyền đón dâu. Đoàn đón dâu đi bộ nhưng nội dung bài hát nhà gái chỉ nhà trai đi thuyền giữa biển xanh, [84, tr.114].
- 16 Rõ ràng, đây là những tư liệu quý để luận án kế thừa, đối chiếu với những tư liệu điền dã tại Ba Vì. - Nghiên cứu về nghi lễ cấp sắc Nghiên cứu về nghi lễ cấp sắc được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm hơn cả. Số lượng các bài tạp chí, tham luận, tiểu luận, khóa luận, nghiên cứu khoa học, sách, luận án viết về lễ cấp sắc của người Dao khá nhiều. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như: Lễ nhằng chậm và nhằng chậm đáo của người Dao Quần Chẹt ở Lập Thạch, Vĩnh Phúc của Phạm Đăng Hiến [33]; Lễ cấp sắc của dân tộc Dao ở Lào Cai của Nguyễn Mạnh Hùng [40]; Lễ cấp sắc của người Dao Lô Gang của Phan Ngọc Khuê [46]; Một sinh hoạt văn hóa lễ hội của người Dao Đỏ ở Lào Cai của tác giả Lê Hồng Lý [57]; Múa trong nghi lễ lập tịch của người Dao Họ ở Lào Cai của tác giả Xuân Mai [61]; Nghi lễ làm trai- lễ chẩu đàng của người Dao của tác giả Nguyễn Sơn Nam [65]; Lễ cấp sắc của người Dao tỉnh Tuyên Quang (2017) của Nguyễn Vũ Phan [68], Các nghiên cứu này trên thống nhất ở chỗ, coi nghi lễ cấp sắc là nghi lễ quan trọng nhất trong cuộc đời mỗi người đàn ông Dao. Việc trải qua nghi lễ không chỉ có ý nghĩa về tâm linh mà còn có ý nghĩa về mặt xã hội. Có trải qua nghi lễ cấp sắc mới được coi là người lớn, được tham dự vào các công việc chung của cộng đồng, khi chết hồn mới được về Dương Châu (Trung Quốc). Các nghiên cứu cũng cho thấy sắc thái địa phương rõ nét của các nhóm Dao thể hiện qua nghi lễ cấp sắc. Nếu người Dao Họ ở Lào Cai, Dao Tiền ở Ba Bể cấp sắc cho con trai chưa vợ, đây là một trong những điều kiện để lấy vợ thì nhóm Dao Quần Chẹt (Dao Nga Hoàng), Dao Lô Gang có vợ lại là điều kiện để thực hiện lễ cấp sắc, Một số công trình nghiên cứu về lễ cấp sắc không chỉ dừng lại ở việc miêu tả nghi lễ mà rút ra ý nghĩa từ việc thực hành nghi lễ như: : Tục cấp sắc của người Dao và tính giáo dục của nó của tác giả Lê Sỹ Giáo [30]; Lễ cấp sắc của người Dao nhìn từ góc độ văn hóa tâm linh của tác giả Hoàng Thị Tuyết Mai [62]; Mối quan hệ giữa lễ thành đinh nguyên thủy và lễ cấp sắc của người Dao của tác giả Võ Mai Phương [74] Những công trình này là nguồn tư liệu phong phú giúp NCS có cái nhìn toàn diện về nghi lễ cấp sắc của người Dao và so sánh với nhóm DQC ở Ba Vì.