Luận án Mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới từ góc độ văn hóa học

pdf 218 trang vuhoa 24/08/2022 8660
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới từ góc độ văn hóa học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_an_my_thuat_ha_noi_thoi_ky_doi_moi_tu_goc_do_van_hoa_ho.pdf

Nội dung text: Luận án Mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới từ góc độ văn hóa học

  1. MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 1 MỞ ĐẦU 2 Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN 9 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 9 1.2. Cơ sở lý luận 24 Tiểu kết chƣơng 1 42 Chƣơng 2. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN MỸ THUẬT HÀ NỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI 43 2.1. Công cuộc đổi mới toàn diện, triệt để đất nƣớc 43 2.2. Các Nghị quyết của Đảng về văn hóa mở đƣờng cho văn hóa nghệ thuật 53 2.3. Tƣ tƣởng cách tân nghệ thuật xuất hiện trong sáng tác mỹ thuật 59 Tiểu kết chƣơng 2 71 Chƣơng 3. DIỆN MẠO VÀ ĐẶC ĐIỂM MỸ THUẬT HÀ NỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI 73 3.1. Diện mạo mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới 73 3.2. Đặc điểm của mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới 79 Tiểu kết chƣơng 3 98 Chƣơng 4. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA MỸ THUẬT HÀ NỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI 100 4.1. Thành tựu của mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới 100 4.2. Những vấn đề đặt ra 112 4.3. Bài học kinh nghiệm 117 Tiểu kết chƣơng 4 122 KẾT LUẬN 124 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NCKH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 128 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 129 PHỤ LỤC LUẬN ÁN 1305
  2. 1 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT PGS : Phó giáo sƣ GS : Giáo sƣ TS : Tiến sĩ NXB : Nhà xuất bản tr. : trang NQ : Nghị quyết TW : Trung ƣơng PL. : Phụ lục TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh NCKH : nghiên cứu khoa học
  3. 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Tầm quan trọng của một giai đoạn phát triển mỹ thuật trong lịch sử một quốc gia, một dân tộc không chỉ đƣợc nhìn nhận riêng biệt từ bản thân giá trị nghệ thuật của tác phẩm mỹ thuật, mà còn từ khía cạnh văn hóa. Các học giả quốc tế có xu hƣớng đánh giá các giai đoạn trong lịch sử nghệ thuật là thành tựu nổi bật của quốc gia, dân tộc nếu giai đoạn đó đề cao và khuyến khích mỹ thuật phát triển. Ở Việt Nam, đặc biệt là ở Hà Nội, trong lịch sử phát triển của mình, thời kỳ đổi mới đƣợc nhìn nhận là thời kỳ mỹ thuật phát triển sôi động. Các họa sĩ Hà Nội và các tác phẩm mỹ thuật của họ đã tạo nên diện mạo đời sống mỹ thuật Hà Nội ẩn chứa những giá trị văn hóa của một thành phố thủ đô. Tuy nhiên, trên bình diện lý luận, sự đóng góp của các họa sĩ Hà Nội trong việc hình thành những giá trị văn hóa dân tộc thông qua hoạt động sáng tạo ở thời kỳ này, chƣa đƣợc nghiên cứu một cách toàn diện. Nghiên cứu mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới dƣới góc nhìn văn hóa học là một hƣớng đi mới trong nghiên cứu về mỹ thuật Việt Nam từ trƣớc tới nay; nhằm đƣa ra những đánh giá đúng đắn, khách quan về sự phát triển của giai đoạn này trong lịch sử phát triển của mỹ thuật Việt Nam nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung, để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho mỹ thuật đƣơng đại là việc làm cần thiết. 1.2. Với bề dày lịch sử hàng ngàn năm văn hiến, Hà Nội từ lâu đã là trung tâm văn hóa của cả nƣớc, cũng đồng nghĩa là trung tâm của một nền mỹ thuật đặc sắc, giàu truyền thống. Sự ra đời của Trƣờng Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dƣơng năm 1925, khiến nơi đây còn đƣợc ghi nhận nhƣ cái nôi của mỹ thuật Việt Nam. Gắn liền với lịch sử đất nƣớc, con ngƣời Việt Nam, những bƣớc thăng trầm của lịch sử mỹ thuật Hà Nội hiện đại cũng đã có con đƣờng phát triển khá gập ghềnh. Đó là sự tạo dựng những giá trị nghệ thuật trên cơ sở tinh thần lạc quan của mỹ thuật khi đồng hành cùng với đất nƣớc suốt hơn nửa thế kỷ của hai cuộc kháng chiến, và sau đó là sự ngƣng lặng, chậm chạp
  4. 3 khi chịu ảnh hƣởng của cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp trong hơn mƣời năm sau ngày thống nhất 30/4/1975. Trong sự thiếu thốn về kinh tế chung, đời sống vật chất khó khăn của cả xã hội kéo lùi nhu cầu sở hữu và thƣởng thức nghệ thuật, không tạo đƣợc môi trƣờng kích thích cần thiết, sáng tạo cá nhân cũng vì thế mà chịu ảnh hƣởng không nhỏ. Khác với TP. Hồ Chí Minh, mỹ thuật Hà Nội với tƣ cách là một thành phố thủ đô- trung tâm chính trị của cả nƣớc, trong một chừng mực nhất định, khép kín hơn trong thời kỳ bao cấp, phần nào đã bị tách rời khỏi dòng chảy chung của mỹ thuật thế giới. Đổi mới phải chăng chính là con đƣờng tất yếu để trở lại với dòng chảy chung đó. 1.3. Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI từ 15-18/12/1986 đề ra đƣờng lối đổi mới toàn diện đất nƣớc; một năm sau, ngày 28/11/1987, Bộ Chính trị (Khóa VI) ban hành Nghị quyết 05- NQ/TW về “Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa; phát huy khả năng sáng tạo, đƣa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bƣớc mới” là một cơ hội vô cùng đáng quý đối với mỹ thuật Hà Nội. Mặc dù, đã có nhiều manh nha đổi mới trong mỹ thuật xuất hiện từ những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, nhƣng việc Nghị quyết 05-NQ/TW đặt ra vấn đề các văn nghệ sĩ phải hoạt động nhƣ thế nào để phát huy đƣợc đầy đủ khả năng sáng tạo cá nhân, các thử nghiệm trong mỹ thuật chính thức nhận đƣợc sự ủng hộ, khuyến khích. Những chủ trƣơng cởi mở của Đảng nhƣ “đừng uốn cong ngòi bút”, “Những việc cần làm ngay” đã có tác động thúc đẩy quan trọng đối với sự đổi mới của văn hóa nghệ thuật. Những vấn đề của con ngƣời và xã hội đƣợc nghệ thuật phản ánh với nhiều góc độ, đặt ra những câu hỏi mang tính phản biện tạo ra những sắc thái mới chƣa từng có, vừa phản ánh hiện thực vừa tạo ra động lực rất quan trọng, không thể thay thế cho quá trình biến đổi xã hội Việt Nam. Yêu cầu tự do sáng tác trong Nghị quyết 05-NQ/TW là cơ sở để mỹ thuật Hà Nội nói riêng, mỹ thuật Việt Nam nói chung có điều kiện hƣớng tới sự phát triển đa dạng phong phú cả về đề tài lẫn phƣơng pháp thể hiện.
  5. 4 Sự gia tăng lƣợng du khách vào Hà Nội sau một thời gian dài không đón khách quốc tế cũng đem đến luồng sinh khí mới cho mỹ thuật Hà Nội. Khi mục đích chung của du khách là tìm hiểu về văn hóa bản địa, đặc biệt là những phẩm vật văn hóa mới mẻ thì các gallery xuất hiện ngày càng nhiều trên những khu phố du lịch, nhất là tại khu phố cổ. Việc bán tranh cho du khách, cho các nhà sƣu tập tranh nƣớc ngoài đã hình thành một thị trƣờng mỹ thuật ở Hà Nội. Đời sống vật chất của các nghệ sĩ và gia đình của họ đƣợc cải thiện, tạo động lực để các họa sĩ tiếp cận thị trƣờng nghệ thuật quốc tế. Làn gió đổi mới đã giúp cho mỹ thuật Hà Nội đã có bƣớc phát triển vƣợt bậc, tạo ra những giá trị đặc trƣng riêng có của một trung tâm văn hóa, thành phố thủ đô thời kỳ mở cửa, đổi mới. Bên cạnh việc tiếp thu những luồng ảnh hƣởng văn hóa, các trào lƣu mỹ thuật nƣớc ngoài, các trào lƣu văn hóa toàn cầu nhƣ hiện đại rồi hậu hiện đại với tâm lý của một xã hội tiêu dùng, mang yếu tố đại chúng. Vậy diện mạo của mỹ thuật Hà Nội nhƣ thế nào trƣớc sự thay đổi của các điều kiện về bối cảnh nhƣ mở cửa, đổi mới, tự do trong tƣ duy và thực hành nghệ thuật, tiếp thu các trào lƣu văn hóa toàn cầu, thị trƣờng mỹ thuật sôi động nhờ khách du lịch, đời sống kinh tế đƣợc cải thiện?. Thực tế sống động, phong phú nhƣ vậy, nhƣng rất ít sách chuyên khảo, công trình nghiên cứu nghiên cứu về mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới nói riêng và mỹ thuật Việt Nam nói chung; thiếu vắng hẳn những nghiên cứu có tính hệ thống từ góc độ văn hóa học, đặc biệt có vận dụng một lý thuyết đặc thù trong nghiên cứu mỹ thuật ở một giai đoạn cụ thể nhằm chỉ ra giá trị văn hóa ẩn dƣới bề mặt của các hoạt động mỹ thuật. Xuất phát từ những nhận định trên, nghiên cứu sinh đã lựa chọn việc nghiên cứu Mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới từ góc độ văn hóa học làm đề tài luận án Tiến sĩ ngành Văn hóa học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu
  6. 5 Luận án tập trung nhận diện mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới; để từ đó đánh giá thực trạng, thành tựu cũng nhƣ bài học kinh nghiệm rút ra từ sự phát triển đó. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận án sẽ phải thực hiện những nhiệm vụ sau: - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về mỹ thuật, mỹ thuật Hà Nội, khái niệm đổi mới đã đƣợc nghiên cứu ở trong và ngoài nƣớc. - Phân tích những nhân tố tác động đến mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi, trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của yếu tố tự do sáng tạo đối với mỹ thuật Hà Nội thời kỳ này. - Nhận diện mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới thông qua việc hệ thống, phân tích đặc điểm mỹ thuật nổi bật. - Đánh giá thành tựu và rút ra những bài học kinh nghiệm, những vấn đề cần đặt ra đối với mỹ thuật Hà Nội hiện nay. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là mỹ thuật ở thành phố Hà Nội thời kỳ đổi mới từ góc nhìn văn hóa học. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Đề tài tập trung nhận diện, phân tích và đánh giá diện mạo của mỹ thuật Hà Nội thời kỳ 1986-2006. Do số lƣợng các họa sĩ sinh sống ở Hà Nội là quá lớn, vì vậy, luận án sẽ lựa chọn một số họa sĩ có vai trò nhất định trong quá trình đổi mới nhƣ họa sĩ Đặng Thị Khuê, họa sĩ Lƣơng Xuân Đoàn, họa sĩ Lê Huy Tiếp để nghiên cứu trƣờng hợp.
  7. 6 - Về không gian: Luận án tập trung nghiên cứu mỹ thuật trên địa bàn thành phố Hà Nội. Bên cạnh những họa sĩ Hà Nội tài danh, mảnh đất địa linh nhân kiệt này còn là nơi định cƣ của rất nhiều thế hệ họa sĩ tuy không sinh ra và lớn lên ở đây nhƣng đã có nhiều đóng góp to lớn, có giá trị cho lịch sử mỹ thuật Việt Nam và góp phần không nhỏ tạo nên diện mạo của mỹ thuật thời kỳ đổi mới. Trên thực tế, khác với TP.HCM và Huế, Hà Nội là trung tâm chính trị, văn hóa lớn của cả nƣớc, trƣớc đổi mới có phần khép kín, nên chịu tác động rõ rệt nhất khi tiến hành công cuộc đổi mới; do đó, ngoài phạm vi trên, để làm rõ hơn diện mạo của mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới, luận án có bàn đến mỹ thuật ở TP.HCM và Huế. - Về thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu thời gian từ 1986-2006. Năm 1986 đƣợc coi là mốc thời gian đánh dấu sự đổi mới toàn diện của đất nƣớc ta trên nhiều phƣơng diện. Việc xác định phạm vi thời gian 20 năm của luận án đƣợc luận giải dựa trên sự xuất hiện của thuật ngữ hậu đổi mới ở một số công trình nghiên cứu khác về mỹ thuật thời kỳ đổi mới. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận án sử dụng nhiều phƣơng pháp nghiên cứu khác nhau nhằm đảm bảo hiệu quả của vấn đề nghiên cứu. Cụ thể: - Phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành: Văn hóa học, Sử học, Nghệ thuật học, trong đó phƣơng pháp Văn hóa học là chủ đạo. Việc áp dụng phƣơng pháp liên ngành cho phép tác giả luận án làm rõ các nhân tố tác động đến mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới, để từ đó chỉ ra những giá trị văn hóa ẩn dƣới diện mạo mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới. - Phƣơng pháp tra cứu tài liệu: Việc tra cứu tài liệu là cơ sở quan trọng để xác định tính hệ thống của vấn đề. Trong yêu cầu cụ thể của nội dung nghiên cứu, phƣơng pháp này sẽ giúp luận án giới thuyết các khái niệm và thuật ngữ liên quan nhƣ mỹ thuật, mỹ thuật Hà Nội, thời kỳ đổi mới
  8. 7 - Phƣơng pháp tổng hợp, so sánh và phân tích tài liệu: Luận án chủ yếu tiến hành phân tích dựa vào nguồn thông tin báo chí xuất bản từ những năm 1986 của thế kỷ XX. Các tạp chí đƣợc sử dụng chủ yếu là Tạp chí Mỹ thuật thời nay, Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật, Tạp chí Mỹ thuật Nhiếp ảnh và một số tạp chí khác có sự quan tâm đặc biệt đến lĩnh vực mỹ thuật. Tuy chƣa thật đầy đủ, song tác giả luận án cho rằng có thể nhận diện tƣơng đối chân xác mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới. - Phƣơng pháp phỏng vấn sâu: Các tài liệu về mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới chủ yếu trong quá khứ; bên cạnh đó, các tổ chức Hội, cơ quan quản lý và các gallery không chú trọng lƣu trữ số liệu, nên tác giả tập trung vào phƣơng pháp phỏng vấn sâu một số cá nhân có liên quan để có đƣợc những đánh giá khách quan trong việc nhận diện diện mạo và đặc điểm của mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới. 5. Câu hỏi nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu, câu hỏi đƣợc đặt ra là: 5.1. Trên phƣơng diện lý luận, mỹ thuật thời kỳ đổi mới có tầm quan trọng nhƣ thế nào trong lịch sử phát triển của mỹ thuật Hà Nội? 5.2. Diện mạo của mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới nhƣ thế nào trƣớc sự thay đổi của các điều kiện về bối cảnh nhƣ mở cửa, tự do trong tƣ duy và thực hành nghệ thuật, thị trƣờng mỹ thuật sôi động nhờ khách du lịch, đời sống kinh tế đƣợc cải thiện cũng nhƣ các trào lƣu văn hóa toàn cầu đƣợc du nhập vào Việt Nam sau khi đổi mới? 5.3. Mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới có mang diện mạo của một nền mỹ thuật hậu hiện đại hay không? 5.4. Mỹ thuật thời kỳ đổi mới có đóng góp gì đối với văn hóa Việt Nam cũng nhƣ bài học kinh nghiệm từ bƣớc phát triển đó? 6. Những đóng góp của luận án
  9. 8 - Về phƣơng diện lý luận: Luận án hệ thống hóa những vấn đề lý luận về mỹ thuật, mỹ thuật Hà Nội, khái niệm đổi mới đã đƣợc nghiên cứu ở trong và ngoài nƣớc; Vận dụng lý thuyết hậu hiện đại để nghiên cứu mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới, đóng góp một hƣớng nghiên cứu mới trong nghiên cứu văn hóa học nghệ thuật. - Trên phƣơng diện thực tiễn: Trên cơ sở khảo sát, phân tích về mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới, luận án cung cấp hệ thống các tƣ liệu liên quan đến nội dung nghiên cứu. - Những kết quả đạt đƣợc có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy văn hóa nghệ thuật. 7. Bố cục của đề tài Ngoài phần Mục lục, Lời cam đoan, Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung luận án gồm 4 chƣơng: Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận Chƣơng 2: Những nhân tố tác động đến mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới Chƣơng 3: Diện mạo và đặc điểm của mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới Chƣơng 4: Những vấn đề đặt ra và bài học kinh nghiệm từ sự phát triển của mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới
  10. 9 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Những nghiên cứu ngoài nước Tình hình nghiên cứu và triển khai các vấn đề liên quan đến luận án tập trung vào các nhóm vấn đề sau: Những công trình nghiên cứu về mỹ thuật Việt Nam trên bình diện lý thuyết Các tác giả nƣớc ngoài cũng có đóng góp nhất định trong nghiên cứu mỹ thuật Việt Nam nói chung và mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới nói riêng. Về mặt lý thuyết, các công trình nghiên cứu về mỹ thuật Việt Nam đều lấy việc xác định cách thức phân kỳ mỹ thuật Việt Nam làm cốt lõi. Tuy nhiên, các học giả nƣớc ngoài có quan điểm phân kỳ mỹ thuật Việt Nam khá khác biệt. Với số lƣợng nổi trội và khá quen thuộc với các họa sĩ Việt Nam là nhà nghiên cứu nghệ thuật N.Taylor qua loạt các công trình nghiên cứu về mỹ thuật Việt Nam với phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu là tiếp cận dƣới góc độ nhân học nghệ thuật. N.Taylor là giáo sƣ về Nghệ thuật Nam Á và Đông Nam Á của Trƣờng Nghệ thuật, Viện Nghệ thuật Chicago (Hoa Kỳ); giảng dạy tại Đại học Bang Arizona, Đại học California tại Los Angeles (Hoa Kỳ)và Đại học Quốc gia Singapore và đã viết rất nhiều về hội họa Việt Nam hiện đại và nghệ thuật Việt Nam đƣơng đại. Luận án tiến sĩ của N.Taylor (1997), The artist and the state: the polictics of painting and national identity in Hanoi, Viet Nam, 1925-1995 (Nghệ sĩ và Nhà nước: Hội họa và bản sắc quốc gia ở Hà Nội, Việt Nam, 1925-1995) [199] là một công trình nghiên cứu phân tích quá trình phát triển của hội họa ở Hà Nội từ những thập kỷ đầu thế kỷ XX với sự ra đời của Trƣờng Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dƣơng. Trong công trình này, Nora Taylor phân kỳ hội họa Việt Nam thành: “thời kỳ thuộc địa (1925-45)”, “cách mạng và kháng chiến (1945-75)”, “thống nhất (1975-86)” và “thời kỳ
  11. 10 mở cửa kinh tế” từ năm 1986. Quan điểm phân kỳ này đƣợc N.Taylor sử dụng thống nhất trong các công trình khác của mình. Một công trình khác nghiên cứu bằng tiếng Anh là luận án bậc Tiến sĩ Triết học về Nghệ thuật Thị giác tại Trƣờng Nghệ thuật Sydney- Đại học Tổng hợp Sydney Vietnamesese Aesthetics from 1925 onwards (Thẩm mỹ Việt Nam từ 1925 đến nay) (2005) của tác giả Boi Tran Huynh (Huỳnh Bội Trân) [206]. Đây là một công trình nghiên cứu về mỹ thuật Việt Nam một cách đầy đủ nhất từ trƣớc tới nay. Đặt trong không gian văn hóa của từng giai đoạn, tác giả đã tiếp cận và phân kỳ mỹ thuật Việt Nam thành các giai đoạn: từ thời kỳ tiền thuộc địa thế kỷ XVIII đến năm 1884, 1925-1945, 1945-1975 ở miền Bắc, 1954-1975 ở miền Nam, 1975-1990 và những năm đổi mới 1990-2004. Đặc biệt, ở hầu hết các công trình nêu trên, đều có nhiều luận điểm liên quan đến vai trò của Trƣờng Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dƣơng đối với mỹ thuật Việt Nam. Thêm vào đó là La peinture vietnamienne, une aventure entre tradition et modernité (Hội họa Việt Nam, cuộc phiêu lưu giữa truyền thống và hiện đại) [207] của một tác giả ngƣời Pháp Corinne de Ménonville. Do có thể đƣợc tiếp xúc trực tiếp với nguồn tƣ liệu bằng tiếng Pháp nên có thể nói rằng đây là công trình có tính xác thực khi bàn về quá trình vận động thành lập Trƣờng Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dƣơng. Trong công trình này, tác giả cũng tập trung vào quá trình phát triển của Trƣờng và nhấn mạnh đến vai trò của nhà trƣờng trong việc thay đổi vai trò của ngƣời nghệ sĩ với tƣ cách là ngƣời sáng tạo độc lập về mặt kinh tế. Công trình này đƣợc Đào Hùng trích dịch trong “Cuộc hành trình lãng mạn- Mỹ thuật Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại” [20]. Việc giới thuyết phạm vi thời gian của thời kỳ đổi mới cũng đƣợc một số công trình bƣớc đầu đề cập đến. Ở vấn đề này, các công trình của các học giả nƣớc ngoài (hoặc viết bằng tiếng Anh) cũng có nhiều luận giải khác nhau: Boi Tran Huynh [206] xác định phạm vi thời gian của thời kỳ đổi mới là từ 1990-2004 vì cho rằng tuy đề ra đƣờng lối đổi mới từ năm 1986 nhƣng
  12. 11 đến năm 1990 mới nhìn nhận thấy ảnh hƣởng rõ ràng trong nghệ thuật. Còn N.Taylor, trong hầu hết các công trình nghiên cứu về mỹ thuật Việt Nam của mình, mặc dù vẫn xác định phạm vi thời gian của thời kỳ đổi mới từ năm 1986, tuy nhiên, trong công trình “What is Đổi Mới in Art?”(Đổi mới trong Nghệ thuật là gì?) [205], tác giả khẳng định đây là một mốc thời gian mang tính giả tƣởng. Ngoài ra, việc giới thuyết khái niệm mỹ thuật Việt Nam hay mỹ thuật Hà Nội cũng bƣớc đầu xuất hiện ở một số công trình, trong đó có các công trình nghiên cứu của N.Taylor. Tuy nhiên, N.Taylor thừa nhận rằng rất thận trọng khi lựa chọn nghiên cứu nghệ thuật Hà Nội để nói về nghệ thuật Việt Nam với hàm ý nghệ thuật Hà Nội là nghệ thuật Việt Nam và giả định rằng tất cả các tác phẩm nghệ thuật đƣợc sáng tạo ở Việt Nam đều là một và đều là giống nhau [201]. Trong “Vietnamese Anti-art and Anti-Vietnamese Artists: Experimental Performance Culture in Ha Noi‟s Alternative Exhibition Spaces” (Văn hóa Trình diễn thử nghiệm trong các không gian triển lãm thay đổi ở Hà Nội) [203], khái niệm “nghệ thuật Việt Nam” đƣợc giới thuyết thông qua sự khái quát về lịch sử mỹ thuật hiện đại Việt Nam từ khi thành lập Trƣờng Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dƣơng trải qua nhiều thời kỳ khác nhau và cho rằng có thể định nghĩa nghệ thuật Việt Nam thông qua mảng tranh đề tài đã hình thành ở thời kỳ thuộc địa, khi các nghệ sĩ học cách tái hiện Việt Nam trong khuôn khổ các loại tranh phong cảnh và chân dung ngƣời dân tộc thiểu số Việt Nam. Cách thể hiện này tiếp tục cả ở miền Bắc và miền Nam ở các thời kỳ sau đó. Đặc biệt ở thời kỳ đổi mới khi tranh đƣợc trƣng bày tại các gallery thƣơng mại, khách du lịch tìm đến với nhu cầu muốn khai phá một vùng đất mới thì những hình ảnh nhằm vinh danh các địa điểm du lịch của đất nƣớc, các truyền thống của địa phƣơng, cũng nhƣ di sản cổ xƣa trở thành cái gọi là “nghệ thuật Việt Nam”. Đặc biệt, liên quan đến khái niệm mỹ thuật/nghệ thuật Việt Nam, trong Painters in Hanoi: an ethnography of Vietnamese art (Các họa sĩ ở Hà Nội: Một cách nhìn dân tộc học về nghệ thuật Việt Nam) [201], N.Taylor mở rộng hơn với
  13. 12 khái niệm thế giới nghệ thuật ở Hà Nội; ở đây, có một cách hiểu hoàn toàn mới so với quan niệm của nghệ thuật Phƣơng Tây bằng cách giới thuyết một định nghĩa về thế giới nghệ thuật ở Hà Nội. Theo đó, thế giới nghệ thuật ở Hà Nội hoàn toàn khác biệt so với thế giới nghệ thuật ở các nƣớc phƣơng Tây. Trong thế giới nghệ thuật ở Hà Nội, các họa sĩ đều biết đến nhau và là thành viên của Hội nghề nghiệp. Nhƣ vậy, có thể thấy rằng, mặc dù số lƣợng các công trình nghiên cứu về mỹ thuật Việt Nam trên bình diện lý thuyết không nhiều, nhƣng những công trình này đóng góp một phần quan trọng trong quá trình luận giải các khái niệm công cụ của luận án. Những công trình nghiên cứu về mỹ thuật Việt Nam thời kỳ đổi mới Số lƣợng những nghiên cứu của nhóm này chủ yếu là một số bài viết, tiểu mục trong công trình luận giải các vấn đề nhƣ bản sắc, giới, vai trò của các nghệ sĩ, toàn cầu hóa, thị trƣờng mỹ thuật, thƣơng mại hóa của các học giả đã nêu. Trong Painters in Hanoi: an ethnography of Vietnamese art [201], N.Taylor tiếp tục làm rõ về mỹ thuật Việt Nam trong toàn bộ tổng quan nghệ thuật đƣơng đại khu vực Đông Nam Á đã chỉ ra vai trò của nhà trƣờng, vai trò của quản lý văn hóa, sự thăng trầm trong đời sống cá nhân các họa sĩ, ảnh hƣởng của họ trong việc thay đổi nhận thức về giới, về xã hội và ảnh hƣởng của quá trình toàn cầu hóa thị trƣờng nghệ thuật và du lịch đến nghệ thuật; và những vấn đề hiện thời nhƣ phƣơng Đông học/ phƣơng Tây học, nghệ thuật và cách mạng, giới, tính dục và chủ nghĩa toàn cầu. Những thông tin mới về đời tƣ nghệ sĩ và áp lực của hệ tƣ tƣởng thể hiện trong hội họa Việt Nam hiện đại đƣợc miêu tả khá đầy đủ ở mỗi chƣơng. Một luận điểm quan trọng khác là sự thay đổi lớn lao về chính trị ảnh hƣởng lớn đến nghệ thuật, từ chủ nghĩa thuộc địa qua cách mạng và chiến tranh tới một nền kinh tế thị trƣờng. Đáng chú ý là trong giai đoạn từ sau năm 1986, N.Taylor cho rằng mỹ thuật Việt Nam đã phát triển theo các cấp độ từ đơn giản nhƣ chỉ đơn thuần phục vụ khách du lịch, tiến
  14. 13 tới hình thành một thị trƣờng nghệ thuật tƣ nhân hóa và cao hơn là sự chủ động tham gia của các nghệ sĩ vào các sự kiện nghệ thuật khu vực và quốc tế. Những thay đổi về thế chế và chính trị trong lịch sử đã tạo ra cả cơ hội kinh tế cũng nhƣ hạn chế sản xuất nghệ thuật. N.Taylor cho rằng, hai nhân tố nghệ sĩ và thị trƣờng nghệ thuật là hai nhân tố thể hiện rõ nhất sự ảnh hƣởng của nghệ thuật hiện đại phƣơng Tây đối với mỹ thuật Việt Nam thời kỳ đổi mới, thông qua việc lý giải cách thức các nghệ sĩ Việt Nam sẵn sàng vì lợi nhuận mà làm giả tranh của họa sĩ nổi tiếng Bùi Xuân Phái để bán cho những khách hàng “nhẹ dạ”. Trở lại với luận án Vietnamesese Aesthetics from 1925 onwards của Boi Tran Huynh [206], một số nội dung về mỹ thuật thời kỳ đổi mới đƣợc Boi Tran Huynh luận giải trong luận án: (1) Vai trò của Triển lãm Mỹ thuật Toàn quốc năm 1980: Nhờ sự góp mặt của các họa sĩ miền Nam, các họa sĩ miền Bắc đƣợc tiếp xúc với mỹ thuật miền Nam, từ đó tạo ra sự quan tâm của các họa sĩ miền Bắc về hình thức nghệ thuật; (2) Vai trò của các triển lãm cá nhân đƣợc tổ chức trong năm 1984-1985 tại Hà Nội; (3) Vai trò của thị trƣờng mỹ thuật trong việc tạo động lực cho các họa sĩ sáng tác. Những luận điểm này Boi Tran Huynh sử dụng để bàn luận đến sự thay đổi trong thẩm mỹ của mỹ thuật Việt Nam, đƣợc tác giả luận án sử dụng nhƣ những trích dẫn có giá trị khoa học trong đề tài của mình. Có thể thấy rõ ràng điểm chung trong nghiên cứu của Boi Tran Huynh và N.Taylor: thứ nhất, đó là khẳng định, mở cửa, cải cách kinh tế mang lại những thay đổi về mặt nhận thức trong văn hóa và nghệ thuật; thứ hai, cho rằng mỹ thuật Việt Nam không có các tác phẩm kiệt xuất. Boi Tran Huynh cho rằng đó là do sự thiếu hụt trong nguồn nhân lực nghệ thuật do chia cắt hai miền Nam Bắc và do ý thức hệ chi phối. Còn theo N.Taylor, do các họa sĩ Việt Nam không có điều kiện tiếp xúc với các định chế mỹ thuật quốc tế nên ít đƣợc công nhận, nhƣng khi đƣợc công nhận thì lại xuất hiện hiện tƣợng sao chép, tranh giả nên hình ảnh mỹ thuật trở nên xấu xí. Luận điểm này đƣợc
  15. 14 N.Taylor luận giải trong bài viết Why have there been no great Vietnamese artists? [202]. Điểm cốt lõi trong bài luận này là việc tác giả lý giải tại sao lại không có họa sĩ Việt Nam „ƣu tú‟. Có nhiều lý do, trong đó, N.Taylor cho rằng trƣớc đây các họa sĩ Việt Nam bị cô lập với thế giới bên ngoài; họ bị xem là những họa sĩ “tỉnh lẻ” theo tiêu chuẩn nhìn nhận của các định chế nghệ thuật phƣơng Tây nhƣ MoMA, Center Pompidou, Venice Bienniale Khi bắt đầu thời kỳ đổi mới, các nghệ sĩ tự do hơn trong sự lựa chọn chủ đề nhƣng lại thiếu sự hƣớng dẫn; sinh viên nghệ thuật không đƣợc dạy cách tƣ duy độc lập, cách sử dụng khả năng sáng tạo. Các nghệ sĩ chạy theo thị trƣờng, chạy theo thị hiếu của ngƣời mua một cách mù quáng để từ đó xuất hiện hiện tƣợng sao chép tranh, tranh nhái hoặc một phong cách nghệ thuật với những hình ảnh nông thôn Việt Nam không tƣởng. Trong bài luận này cũng bàn đến họa sĩ Bùi Xuân Phái và hiện tƣợng làm giả tranh Phái nhƣ đã đề cập ở công trình Painters in Hanoi: an ethnography of Vietnamese art. Và với thị trƣờng nghệ thuật, N.Taylor khẳng định: thị trường nghệ thuật cũng mang đến rất nhiều vấn đề cho các nghệ sĩ Việt Nam [202, tr.163]. Một tác giả khác, Natalia Kraevskaia - Giám đốc Salon Natasha tại Hà Nội, cũng đóng góp nhiều luận điểm liên quan đến mỹ thuật Hà Nội thời kỳ đổi mới, đặc biệt dƣới góc độ của một nhà buôn tranh. Bài viết Nghệ thuật Việt Nam: Cái nhìn của nhà buôn tranh nước ngoài [84] tập trung chỉ ra 6 điểm tiêu cực trong bối cảnh những năm 90 cuối thế kỷ XX. Đó là: (1) Vực thẳm ngăn cách giữa truyền thống và hiện đại, giữa thực nghiệm và thƣờng thức đã trở nên rất khó cảm nhận và những nét tƣơng phản mạnh mẽ trong bức tranh nghệ thuật giữa thập niên 90 thế kỷ XX đã thể hiện một bề mặt bằng phẳng hơn; (2) Sự tự hạn chế của các họa sĩ, việc sợ dẫm chân lên ranh giới của thông lệ và cảm nhận cái mới rất phổ biến hiện nay; (3) Sự đổi mới quá hiếm hoi mặc dù có thể đầy triển vọng và nổi bật song thƣờng không đƣợc bản thân giới nghệ thuật thừa nhận; (4) Những họa sĩ giỏi nhất, nổi tiếng nhất và kỳ cựu
  16. 15 nhất lặp đi lặp lại những sáng tác trong quá khứ, biến sáng tạo sang hình thức sản xuất hàng hóa, đều đặn cung cấp cho thị trƣờng những hàng hóa đã đƣợc chứng nhận; (5) Thế hệ trẻ đã hùa vào cùng trào lƣu sao chép các tác phẩm bán chạy nhất và sáng tác ra những tác phẩm không cá tính; (6) Ảnh hƣởng không phải bàn cãi của thị trƣờng bao gồm chủ yếu những ngƣời nƣớc ngoài. Đây cũng là một bài viết khá thẳng thắn về nghệ thuật đƣơng đại Việt Nam cũng nhƣ bàn thẳng đến một số khía cạnh tiêu cực khi nói đến quản lý và vai trò của các gallerry trong việc giúp nghệ thuật đƣơng đại Việt Nam có một chỗ đứng trong đời sống nghệ thuật quốc tế. Ngoài ra, còn một số bài báo cùng tác giả về các vấn đề của mỹ thuật Việt Nam nhƣ: “Mỹ thuật đƣơng đại Việt Nam- sự thay đổi, sự trì trệ, tiềm năng, chiến lƣợc” [83], viết chung với Lisa Drummond (Uyên Ly dịch) “Chân dung Hà Nội trong mắt nghệ sĩ mỹ thuật Việt Nam” [85] 1.1.2. Những nghiên cứu trong nước Những công trình nghiên cứu về mỹ thuật Việt Nam dưới góc độ văn hóa học Các công trình nghiên cứu về mỹ thuật dƣới góc độ văn hóa học ở Việt Nam còn khá hạn chế. Trên thực tế, phần lớn thuộc nhóm này là những công trình nghiên cứu về mỹ thuật cổ. Tiêu biểu: Chu Quang Trứ (2002), Văn hóa Việt Nam, nhìn từ mỹ thuật [155]. Trong công trình này, thông qua các vấn đề nhƣ văn hóa trong tâm thức ngƣời Việt; bản sắc văn hóa; mỹ thuật hiện đại; nghệ thuật đình làng; kiến trúc truyền thống; lịch sử mỹ thuật; tranh dân gian; mỹ thuật ứng dụng; mỹ thuật các dân tộc ít ngƣời tác giả đã nhận diện đƣợc toàn cảnh bức tranh chân dung văn hóa Việt Nam cũng nhƣ chỉ ra tác động qua lại giữa văn hóa và mỹ thuật. Ngoài ra, một công trình nghiên cứu về hội họa: Nguyễn Văn Cƣờng (2016), Hội họa Việt Nam giai đoạn 1925 – 1945 nhìn từ góc độ văn hóa [18] đi vào nghiên cứu toàn diện về hội họa Việt Nam giai đoạn 1925 – 1945 từ góc độ văn hóa học; làm sáng tỏ vị trí, vai trò và những đóng góp của hội họa Việt Nam
  17. 16 giai đoạn này trong tiến trình mỹ thuật Việt Nam hiện đại nói riêng và lịch sử mỹ thuật dân tộc nói chung. Công trình nghiên cứu này góp phần cung cấp một cách có hệ thống những tƣ liệu liên quan đến hội họa Việt Nam giai đoạn 1925 – 1945; từ đó đúc rút đƣợc bài học kinh nghiệm cho những giai đoạn phát triển kế tiếp của hội họa Việt Nam. Những công trình nghiên cứu về mỹ thuật Việt Nam trên bình diện lý thuyết Các công trình nghiên cứu của các tác giả Việt Nam đều khá thống nhất trong việc phân kỳ lịch sử mỹ thuật Việt Nam, mặc dù có thể đƣợc đặt tên khác nhau tùy theo quan điểm nghiên cứu riêng của từng tác giả. Trong đó: Nguyễn Quân (2010) trong Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ 20 [128] phân kỳ lịch sử Việt Nam với các giai đoạn sau: Những năm đầu thế kỷ XX; thời kỳ 1925-1945; thời kỳ 1945-1975; thời kỳ 1975-1986; và thời kỳ đổi mới (từ năm 1986). Riêng mỹ thuật thời kỳ đổi mới mà Nguyễn Quân đặt trong cái gọi là “một phần tƣ thế kỷ hòa hợp- đổi mới - hội nhập”, đƣợc dành sự chú ý đặc biệt (phần viết này chiếm gần 50 trang của cuốn sách). Cách phân kỳ này cũng thể hiện cụ thể trong bài viết của cùng tác giả Nguyễn Quân (6/2001) “Phân kỳ lịch sử mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XX [127]. Ở công trình Mỹ thuật thủ đô Hà Nội thế kỷ 20 (2001) do họa sĩ Quang Phòng chủ biên [123], các tác giả nghiên cứu nghiêm túc, khá đầy đủ và tỉ mỉ với tác giả, tác phẩm trong thế kỷ XX, tóm lƣợc lịch sử của mỹ thuật Hà Nội trong thế kỷ XX; tiếp cận từ góc nhìn lịch sử nghệ thuật và nghệ thuật học, phân chia lịch sử mỹ thuật thế kỷ XX ở Hà Nội thành bốn thời kỳ: Thời kỳ khởi động (1900-1925), thời kỳ “Mỹ thuật Đông Dƣơng” (1925-1945), thời kỳ “Cách mạng và Kháng chiến” (1945-1975), thời kỳ từ Hòa bình đến “Đổi mới”. “Nghệ thuật hiện đại Việt Nam- Tiến trình và bản sắc” [77] của Bùi Nhƣ Hƣơng (12/2008), có điểm khác biệt trong cách phân kỳ lịch sử mỹ thuật Việt Nam: đó là phân chia mỹ thuật Việt Nam sau ngày đất nƣớc thống nhất 1975 thành hai giai đoạn: tiền đổi mới (1975-1985) và đổi mới (1986-2000). Đây là quan điểm mới so với những công trình nghiên cứu về lịch sử mỹ thuật
  18. 17 Việt Nam khác. Ngoài ra, đây là công trình đầu tiên đề cập đến khái niệm tiền đổi mới. Trần Khánh Chƣơng (2012) trong Mỹ thuật Hà Nội thế kỷ XX [16] lại tập hợp những bài viết nhỏ về các sự kiện, số liệu, nhận định, tác giả- tác phẩm đƣợc kết cấu theo tiến trình hình thành và phát triển của mỹ thuật Hà Nội thông qua dấu mốc quan trọng của lịch sử Việt Nam, dàn trải theo từng thể loại nhƣ hội họa, điêu khắc, mỹ thuật sân khấu và điện ảnh, mỹ thuật ứng dụng, lý luận phê bình. Tuy nhiên, ở công trình này, có thể do đối tƣợng nghiên cứu là mỹ thuật Hà Nội nên có một điểm khác biệt trong cách phân kỳ mỹ thuật khi tác giả đặt trong bối cảnh văn hóa, lịch sử Hà Nội: Trƣớc năm 1945; thời kỳ Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống Pháp (1945- 1954); 10 năm đầu hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954-1964); thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc (1964-1975); 10 năm đầu thống nhất đất nƣớc (1975-1985); thời kỳ đổi mới (1986-2000). Sự tƣơng đối đồng thuận trong cách thức phân kỳ lịch sử mỹ thuật Việt Nam của các học giả đã nêu là cơ sở quan trọng của luận án nhằm hƣớng tới sự thống nhất trong luận giải các khái niệm công cụ. Một vấn đề nghiên cứu khác trên bình diện lý thuyết là giới thuyết các khái niệm, trong đó có khái niệm mỹ thuật đổi mới. Khái niệm này đƣợc đề cập đến trong Hội thảo 20 năm mỹ thuật thời kỳ đổi mới 1986-2006 (2006) tại Viện Mỹ thuật, Trƣờng Đại học Mỹ thuật Hà Nội, mặc dù chƣa có nhiều. Nổi bật là luận điểm của Nguyễn Quân cho rằng mỹ thuật đổi mới không chỉ đơn giản là mỹ thuật trong thời kỳ đổi mới về chính trị- kinh tế- xã hội từ 1986 tới nay (2006) mà là mô hình, trào lƣu và khuynh hƣớng thẩm mỹ lớn thứ ba ở Việt Nam trong thế kỷ XX. Những công trình nghiên cứu về mỹ thuật thời kỳ đổi mới (1) Về chủ nghĩa hậu hiện đại Chủ nghĩa Hậu hiện đại đã đƣợc đề cập nhiều trong các công trình nghiên cứu về văn hóa nghệ thuật ở Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực văn