Luận án Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự

pdf 175 trang vuhoa 23/08/2022 7020
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận án Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

File đính kèm:

  • pdfluan_an_bao_dam_quyen_con_nguoi_cua_nguoi_bi_buoc_toi_trong.pdf

Nội dung text: Luận án Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN HỮU HẬU “BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH BUỘC TỘI CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ” Ngành: Luật hình sự-tố tụng hình sự Mã số: 9 38 01 04 LUẬN ÁN TIẾN SỸ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN ĐÌNH NHÃ Hà Nội, 2019
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu thống kê trong luận án là hoàn toàn trung thực do tôi thực hiện. Đề tài nghiên cứu và các kết luận khoa học của luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các thông tin trích dẫn, tài liện tham khảo trong luận án này đều được chỉ rõ nguồn gốc. Tác giả luận án xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ chân tình của quý Thầy, Cô giáo, các nhà khoa học của Học viện Khoa học xã hội Việt Nam và các nhà khoa học ngoài Học viện đã truyền đạt, cung cấp kiến thức để Nghiên cứu sinh hoàn thành tốt luận án này. Tác giả luận án NGUYỄN HỮU HẬU
  3. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 13 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 13 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 27 1.3. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu 33 Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH BUỘC TỘI CỦA VIỆN KIỂM SÁT 40 2.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, ý nghĩa bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát 40 2.2. Cơ sở, các yếu tố, yêu cầu, phương thức bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát 69 2.3. Tiêu chuẩn đánh giá (hoặc xác định) hiệu quả bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát 90 2.4. Lược khảo việc hình thành, phát triển chế định bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát 94 Chương 3: THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH BUỘC TỘI CỦA VIỆN KIỂM SÁT 101 3.1. Thực tiễn bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự 101 3.2. Những tồn tại, thiếu sót trong việc bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử thời gian qua 112 3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc 118
  4. Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT Ở CÁC GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ 122 4.1. Quan điểm định hướng tiếp tục bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát 122 4.2. Giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và những văn bản hướng dẫn, giải thích pháp luật, chỉ đạo nghiệp vụ, hoàn thiện giáo trình lý luận nghiệp vụ 124 4.3. Giải pháp tăng cường hoạt động của Viện kiểm sát bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội 129 4.4. Giải pháp khác 146 KẾT LUẬN 150
  5. DANH MỤC CÁC BẢNG [BẢNG 3.1 a] VKS BAO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI QUA PHÊ CHUẨN VIỆC BẮT, TẠM GIỮ, KHỞI TỐ 10 NĂM (2009-2018) [BẢNG 3.1 b] BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI QUA VIỆC KHÔNG PHÊ CHUẨN VÀ HỦY BỎ QĐ TT TRÁI PHÁP LUẬT [BẢNG 3.2]- VKS BAO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA [BẢNG 3.3] – VKS BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI GIAI ĐOẠN TRUY TỐ [BẢNG 3.4] – VKS BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI GĐ XÉT XỬ SƠ THẨM HS 10 NĂM (2009-2018) [Bảng 3.5] VKS BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI QUA HẠN CHẾ ÁN TRẢ ĐIỀU TRA BỔ SUNG 10 NĂM
  6. MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài luận án Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự là nội dung quan trọng về thực tiễn và nghiên cứu khoa học, thế nhưng trong thời gian dài, đề tài này chưa được quan tâm nghiên cứu do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, thể hiện ở các mặt, phương diện như sau: Về mặt lý luận: Ngoài các vấn đề lý luận được thừa nhận chung liên quan đến đề tài luận án như quyền con người của người bị buộc tội trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam tương thích với Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người cũng như các Công ước quốc tế về quyền con người ở từng mức độ, trong đó có một số đề tài nghiên cứu việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người bằng hoạt động xét xử của Tòa án hoặc chỉ nghiên cứu việc bảo đảm, bảo vệ quyền con người qua thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát. Bên cạnh đó vẫn còn nhiều khái niệm có nội dung liên quan vẫn còn bỏ ngỏ về mặt lý luận hoặc có nghiên cứu nhưng chưa sâu, cụ thể như nội hàm của khái niệm hoạt động chứng minh buộc tội của chủ thể buộc tội (đặc biệt chủ thể buộc tội là Viện kiểm sát), nhất là việc bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát trong mối quan hệ với việc thực hiện quyền được suy đoán vô tội, quyền chứng minh vô tội, quyền không tự buộc tội chính mình, quyền bào chữa, tranh tụng để xác định sự thật vụ án là chưa có công trình nào nghiên cứu .v.v Về phương diện luật thực định: Các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 qua thực tiễn áp dụng nhận thấy vẫn còn nhiều mâu thuẫn, bất cập, ảnh hưởng không nhỏ đến việc không bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, cụ thể như tại Điều 79 về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam quy định rất chung chung mang tính nhận thức chủ quan như: Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn: bắt, tạm giữ, tạm giam Việc ngầm thừa nhận “Quyền im lặng” của người bị buộc tội bằng quy định tại khoản 4 Điều 209: Nếu bị cáo không trả lời các câu hỏi thì Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền 1
  7. lợi của đương sự tiếp tục hỏi những người khác và xem xét vật chứng, tài liệu có liên quan đến vụ án. Hiện nay, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã khắc phục bằng việc ghi nhận quyền không tự buộc tội của người bị buộc tội như: “Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội” (điểm d khoản 1 Điều 58, điểm c khoản 2 Điều 59, điểm d khoản 2 Điều 60, điểm h khoản 2 Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) và quyền này được thể hiện ở tất cả các giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử cũng cần được lý giải làm rõ về lý luận; Về phương diện thực tiễn: Cơ chế bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội chưa khả thi, chưa thấy vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát vừa là cơ quan Công tố, cơ quan buộc tội nhưng đồng thời là cơ quan chịu trách nhiệm bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội xuyên suốt trong các giai đoạn tố tụng hình sự. Thực tế trong thời gian dài vẫn xảy ra nhiều oan, sai do bức cung, nhục hình, nguyên nhân cơ bản là chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ quyền con người của người bị buộc tội, vi phạm nguyên tắc kinh điển là nguyên tắc “Suy đoán vô tội”, chưa phân biệt các khái niệm: người bị tình nghi phạm tội, người có tội, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chưa phân biệt rành mạch các chức năng tố tụng hình sự v.v Thực tiễn hoạt động chứng minh tội phạm, người phạm tội nói chung và hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát nói riêng trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự thời gian qua (từ năm 2009-2018) vẫn còn tồn tại nhiều vi phạm, thiếu sót, xâm phạm quyền con người như đánh giá tại các Nghị quyết của Đảng như: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã nêu: “ chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp ”. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” cũng đã đánh giá: “ vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử ” 2
  8. Tại báo cáo số 870/BC-UBTVQH13 ngày 20/05/2015 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về kết quả giám sát tình hình oan, sai, đã nêu rõ: “ tình trạng khởi tố, điều tra, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án do hành vi không cấu thành tội phạm, do miễn trách nhiệm hình sự có dấu hiệu làm oan người vô tội. Các trường hợp làm oan đều là nghiêm trọng, ảnh hưởng lớn đến danh dự, nhân phẩm, sức khỏe, tài sản của người dân bị oan; có một số vụ đặc biệt nghiêm trọng gây bức xúc trong dư luận, gây mất lòng tin của nhân dân đối với công lý, giảm sút uy tín của cơ quan bảo vệ pháp luật. Nhiều trường hợp bắt, tạm giữ, tạm giam chưa chính xác sau đó phải chuyển xử lý hành chính; số bị can về tội ít nghiêm trọng bị tạm giam còn nhiều, có biểu hiện lạm dụng. Để xảy ra một số vụ dùng nhục hình, có trường hợp dẫn đến chết người gây bức xúc dư luận Nguyên nhân chính dẫn đến các trường hợp oan, sai chủ yếu thuộc về lỗi chủ quan của một số người tiến hành tố tụng (trình độ, năng lực yếu kém, trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp hạn chế) và do quy định pháp luật còn nhiều bất cập như về căn cứ bắt khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam chưa chặt chẽ, có trường hợp do quá tin vào lời nhận tội của bị can mà chưa chú trọng phát hiện, thu thập, củng cố chứng cứ khác ngay từ đầu (lấy lời khai người làm chứng, nhận dạng, đối chất ) nên khi bị can phản cung hoặc bị hại thay đổi lời khai thì lúng túng, bị động; quá trình điều tra lại gặp rất nhiều khó khăn, số vụ phải trả hồ sơ điều tra bổ sung còn nhiều, làm kéo dài việc giải quyết vụ án, đặc biệt là còn để xảy ra một số trường hợp vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân của người bị tình nghi thực hiện tội phạm Chất lượng giám định cũng bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập như không giám định được dấu vết máu, lông, tóc tại hiện trường để truy nguyên cá biệt, xác lập chứng cứ xem đó là của ai (nạn nhân hay thủ phạm); nhiều trường hợp phải giám định nhiều lần và kết quả giám định rất khác nhau dẫn đến việc xử lý vụ án gặp khó khăn; kết luận giám định trong một số trường hợp có biểu hiện không khách quan Tại Báo cáo số 11/VKSTC ngày 19/01/2015 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc tổng kết 10 năm thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự đã đánh giá: “ Tỷ lệ người bị bắt, tạm giữ không đủ căn cứ khởi tố hình sự tuy đã giảm nhưng vẫn ở mức cao; việc áp dụng biện pháp tạm giam còn biểu hiện lạm dụng, không kịp thời hủy bỏ biện pháp tạm giam khi không còn cần thiết; để xảy ra một số trường hợp quá hạn tạm giữ, tạm giam mà không kịp thời có lệnh tạm giam hoặc gia hạn tạm 3
  9. giam; các biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm ít được áp dụng, kém phát huy hiệu quả trong thực tiễn , chậm trễ trong việc giải quyết các yêu cầu, đề nghị của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa; một số vụ án gia hạn thời hạn điều tra, gia hạn tạm giam chưa bảo đảm căn cứ luật định. Còn có một số trường hợp các Điều tra viên mớm cung, bức cung, nhục hình đối với bị can, làm cho việc điều tra thiếu khách quan và không đầy đủ, là một trong những nguyên nhân dẫn đến tại phiên tòa, bị cáo phản cung, không thừa nhận nội dung lời khai tại Cơ quan điều tra. Việc điều tra, thu thập, đánh giá chứng cứ trong một số vụ án chưa đầy đủ, kịp thời; vật chứng bị mất, hư hỏng không thể phục hồi hoặc thu giữ tràn lan những vật không liên quan đến vụ án, làm cho việc nhận định, đánh giá khác nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn đến tình trạng chậm khởi tố vụ án, khởi tố bị can hoặc khởi tố không đúng tội danh, để lọt tội phạm, gây bức xúc trong dư luận nhân dân. Viện kiểm sát có trách nhiệm phê chuẩn một số lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra nhưng thiếu các cơ chế pháp luật để Viện kiểm sát thực hiện tốt trách nhiệm này; Viện kiểm sát phải chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình. Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự lại thiếu các biện pháp áp dụng trong trường hợp Cơ quan điều tra và Điều tra viên không thực hiện đầy đủ các yêu cầu của Viện kiểm sát (Điều 114) ” nên Tác giả luận án nhất trí với việc đánh giá của Tiến sỹ luật học Lê Hữu Thể cho rằng: “ tư duy trong giải quyết vụ án hình sự vẫn đặt sự quan tâm nhiều hơn ở nhiệm vụ giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, mục tiêu đề cao công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân vẫn chưa giành được vị trí ưu tiên đúng như tầm quan trọng của nó ” [ 99, trang 133 ]. Nghiên cứu sinh nhận thấy: tất cả những tồn tại, thiếu sót, khó khăn, vướng mắc nêu trên chủ yếu là do chưa nhận thức đúng đắn việc bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội và chưa thấy rõ vai trò, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong thời gian qua. Thể chế hóa các chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam về bảo đảm quyền con người trong tình hình mới; Hiến pháp năm 2013 và các đạo luật mới về tư pháp vừa ban hành thời gian gần đây đã đề cao và tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người như: coi trọng quyền được suy đoán vô tội, không tự buộc tội, 4
  10. quyền bào chữa, tranh tụng dân chủ, công khai, phòng, chống tra tấn, bức cung, nhục hình, không để xảy ra oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm, người phạm tội nhằm đấu tranh có hiệu quả đối với các loại tội phạm và những vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp hình sự nên đã khắc phục những khoảng trống pháp lý ảnh hưởng đến việc không bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội và định hướng cho hoạt động của các cơ quan tư pháp không chỉ vì mục tiêu duy nhất là phát hiện, xử lý tội phạm, người phạm tội mà phải trên quan điểm vì con người, tôn trọng quyền con người của người bị buộc tội, coi đó là nguyên tắc tố tụng quan trọng cao nhất khi tiến hành buộc tội, kết tội nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng nền tư pháp nước ta thật sự dân chủ, công bằng, nhân đạo, nghiêm minh, vì công lý, đề cao trách nhiệm trước nhân dân. Hiện nay, tại khoản 3 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và khoản 2 Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 đã xác định cho Viện kiểm sát có nhiệm vụ: “ bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, Viện kiểm sát giữ quyền công tố, chứng minh tội phạm, người phạm tội; vậy làm thế nào để Viện kiểm sát trong quá trình chứng minh buộc tội vẫn thực hiện trách nhiệm bảo vệ, bảo đảm quyền con người nói chung và quyền con người của người bị buộc tội nói riêng. Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và đáp ứng yêu cầu thực tiễn cấp thiết nên Nghiên cứu sinh chọn đề tài: “Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự” làm luận án Tiến sỹ luật học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án *Mục đích của luận án: Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về bảo đảm quyền con người và các quyền tố tụng của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, từ đó tạo ra nhận thức mới, đúng đắn, đầy đủ để các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng hiểu và áp dụng thống nhất, tránh những hành vi xâm phạm quyền con người của người bị buộc tội; đồng thời tạo điều kiện tốt nhất cho người bị buộc tội hiểu biết để tự bảo vệ mình. Nghiên cứu đề tài còn 5
  11. nhằm mục đích tìm ra những hạn chế, thiếu sót, khó khăn, vướng mắc, bất cập, cùng những nguyên nhân, từ đó đề xuất giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự cũng như hoàn thiện đầy đủ những văn bản hướng dẫn giải thích pháp luật, các văn bản chỉ đạo nghiệp vụ đơn ngành, liên ngành nhằm tăng cường hoạt động của Viện kiểm sát đảm bảo quyền con người của người bị buộc tội, góp phần ngăn ngừa, hạn chế tình trạng oan, sai; phòng, chống bỏ lọt tội phạm, người phạm tội. *Nhiệm vụ nghiên cứu: Thứ nhất, luận án nghiên cứu một cách tổng quan tình hình đảm bảo quyền con người của người bị buộc tội ở trong nước và nước ngoài, không chỉ nhằm tránh sự trùng lặp, sao chép trong nghiên cứu khoa học mà còn là sự tiếp thu có chọn lọc những tư duy pháp lý tiến bộ để lập luận cho quan điểm mới của Nghiên cứu sinh, từ đó có thể rút ra những kinh nghiệm áp dụng cho các cơ quan tiến hành tố tụng nước ta, đặc biệt là Viện kiểm sát nhân dân trong thời gian tới và những vấn đề liên quan đến đề tài luận án cần được tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện dưới góc độ khoa học luật hình sự-tố tụng hình sự; Thứ hai, luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát cùng với việc thực hiện quyền được suy đoán vô tội, quyền không tự buộc tội của người bị buộc tội, quyền chứng minh vô tội với trách nhiệm chứng minh buộc tội, kết tội của chủ thể tiến hành tố tụng trên cơ sở nguyên tắc suy đoán vô tội, bào chữa và tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, qua đó góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về khái niệm, đặc điểm, nội dung, ý nghĩa, cơ sở, yếu tố và phương thức bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và những vấn đề lý luận liên quan phát sinh như: các yêu cầu bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong vụ án hình sự, các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát; Thứ ba, luận án nghiên cứu thực tiễn bảo đảm quyền con người và các quyền tố tụng của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trong 10 năm qua (2009- 2018), làm rõ những mặt tích cực cùng với những khó khăn, hạn chế, vướng mắc, 6
  12. bất cập và tìm những nguyên nhân để khắc phục; từ đó đúc rút ra vấn đề mang tính nguyên tắc mà Chỉ thị 53-CT/TW ngày 21/03/2000 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: “Tăng cường trách nhiệm pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân đối với công tác bắt, giam, giữ, sai sót trong công tác bắt, giam, giữ ở địa phương nào thì Viện kiểm sát nhân dân ở địa phương đó phải chịu trách nhiệm”; Thứ tư, luận án xác định các quan điểm định hướng tiếp tục bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, đề xuất giải pháp khả thi nhằm tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án *Đối tượng nghiên cứu: Luận án tiếp cận đối tượng nghiên cứu ở ba phương diện: lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn thực hiện và áp dụng pháp luật. Về lý luận: Đó là các học thuyết, lý thuyết triết học, luật học, xã hội học, nhân quyền học, khoa học điều tra tội phạm, tội phạm học, khoa học luật hình sự và tố tụng hình sự, lý luận về chứng cứ và chứng minh chứa đựng các tư tưởng, quan điểm về bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát nhất là những nội dung liên quan đến việc thực hiện quyền được suy đoán vô tội, quyền không tự buộc tội của người bị buộc tội, quyền chứng minh vô tội với trách nhiệm chứng minh buộc tội, kết tội của chủ thể tiến hành tố tụng trên cơ sở nguyên tắc suy đoán vô tội, bào chữa và tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ở Việt Nam và của một số nước trên thế giới. Về phương diện luật thực định: Đó là những tư duy pháp lý mới thể hiện trong Hiến pháp năm 2013 và các đạo luật mới về tư pháp vừa ban hành thời gian gần đây đã ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, bảo vệ công lý (từ năm 2014 đến nay). Về phương diện thực tiễn thực hiện và áp dụng pháp luật: Trong thời gian từ năm 2014 đến nay, tư duy lý luận về bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát đã không ngừng phát triển và được thể hiện trong thực tiễn thực hiện pháp luật tố tụng hình sự nên cũng cần được sơ kết, tổng kết, nghiên cứu, đánh giá nâng lên ở tầm lý luận phục vụ 7
  13. cho việc đào tạo, bồi dưỡng nhận thức và hoạt động thực tiễn cho các chức danh tư pháp nói riêng và nâng cao ý thức pháp luật trong xã hội nói chung. *Phạm vi nghiên cứu: Về nội dung: Luận án nghiên cứu hoạt động bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của chủ thể buộc tội (chủ yếu là Viện kiểm sát các cấp) trong mối quan hệ với quyền được suy đoán vô tội, quyền không tự buộc tội của người bị buộc tội ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự (theo các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm là chủ yếu do hoạt động buộc tội kết thúc khi có Bản án kết tội có hiệu lực pháp luật) đối với các chủ thể tiến hành tố tụng, chủ thể tham gia tố tụng có liên quan đến hoạt động của Viện kiểm sát. Riêng thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với Bản án kết tội, không kết tội có hiệu lực pháp luật thì người bị kết án có quyền được suy đoán vô tội hay không và có tồn tại hoạt động buộc tội hay không cũng cần được lý giải làm rõ một cách khoa học. Luận án không nghiên cứu đặc điểm riêng về nhân thân của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, là người nước ngoài, người dân tộc thiểu số v v Về phạm vi thời gian: Luận án nghiên cứu thực tiễn bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong thời gian khoảng 10 năm trở lại đây (từ năm 2009 đến năm 2018). Về phạm vi không gian: Luận án khảo sát thực tiễn bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội ở các địa bàn trên phạm vi cả nước; trong đó chú trọng địa bàn trọng điểm là thành phố Hồ Chí Minh. 4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án. Luận án làm rõ những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát trong mối quan hệ với quyền được suy đoán vô tội, quyền không tự buộc tội của người bị buộc tội để hạn chế, khắc phục oan, sai, đồng thời không bỏ lọt tội phạm, người phạm tội. Luận án phân tich, đánh giá thực tiễn bảo đảm quyền con người và các quyền tố tụng của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát trong thời gian qua, làm rõ những mặt hạn chế, khiếm khuyết của hoạt động này, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nhằm tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát trong thời gian tới. 8
  14. Kết quả luận án có thể làm tài liệu tham khảo để xây dựng hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự, các hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ, phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng nhận thức và nghiệp vụ cho các chức danh tư pháp trong hoạt động thực tiễn. 5. Những đóng góp mới của luận án. Thứ nhất, lần đầu tiên luận án đưa ra khái niệm, đặc điểm, nội dung, ý nghĩa, cơ sở, yếu tố, yêu cầu và phương thức bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; Thứ hai, phân tích làm sáng tỏ về mặt lý luận mối quan hệ của quyền không tự buộc tội với trách nhiệm buộc tội, kết tội trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Khi các chủ thể tiến hành tố tụng tiến hành các biện pháp điều tra thu thập chứng cứ, không được yêu cầu người bị buộc tội thực hiện các hành vi tự buộc tội (trực tiếp hoặc gián tiếp) khi họ thực hiện nghĩa vụ tố tụng theo luật định. Đồng thời xác định được tiêu chuẩn đánh gía hiệu quả bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn; Thứ ba, đưa ra nhận thức mới về cơ chế bảo đảm bằng các biện pháp pháp lý khi thực hiện quyền năng của Viện kiểm sát như quyền yêu cầu, quyền kiến nghị, quyền kháng nghị, quyền khởi tố, yêu cầu khởi tố và theo phương thức bảo đảm riêng có của Viện kiểm sát như: thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp (trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật) để phát hiện, xử lý và phòng ngừa vi phạm quyền con người của người bị buộc tội. Thứ tư, luận án nghiên cứu thực tiễn bảo đảm quyền con người và các quyền tố tụng của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trong 10 năm qua (2009- 2018), làm rõ những mặt tích cực cùng với những khó khăn, hạn chế, vướng mắc, bất cập và tìm những nguyên nhân để khắc phục; Thứ năm, xác định các quan điểm định hướng tiếp tục bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, đề xuất giải pháp khả thi nhằm tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự của nước ta trong thời gian tới. 9
  15. 6. Cơ sở lý luận, câu hỏi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa, về dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; về cải cách tư pháp, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, lý luận về quyền con người trong tư pháp hình sự, về mô hình và chức năng tố tụng hình sự, lý luận về chứng cứ và chứng minh, về quyền công tố, quyền buộc tội liên quan đến quyền được suy đoán vô tội, quyền chứng minh vô tội, quyền không tự buộc tội của người bị buộc tội, quyền bào chữa, tranh tụng, các lý thuyết về nhận thức luận và xác định chân lý ở các mô hình tố tụng hình sự v.v. Câu hỏi nghiên cứu: Thứ nhất, Viện kiểm sát có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ gì trong việc bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, có phải khi Viện kiểm sát thực thi trách nhiệm thì quyền con người của người bị buộc tội mới được bảo đảm và ngược lại là không được bảo đảm; Thứ hai, Viện kiểm sát góp phần bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội bằng những phương thức nào, cách phát hiện và xử lý hành vi vi phạm trong hoạt động của Viện kiểm sát. Các cách thức nào được người bị buộc tội sử dụng để bảo vệ mình trước những hành vi vi phạm; Thứ ba, những yếu tố nào tác động đến công tác bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội, cần có điều kiện gì cho việc bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội của Viện kiểm sát; các yếu tố nào đang gây cản trở cho việc bảo đảm của Viện kiểm sát; Thứ tư, xác định các tiêu chí đánh giá hiệu quả bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội hiện nay như thế nào?; Thứ năm, để tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội cần có những giải pháp khả thi nào?. Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận án sử dụng kết hợp các phương pháp khảo sát, hệ thống, quy nạp, diễn dịch, phân tích, tổng hợp, thống kê, lịch sử, so sánh pháp luật, lôgic 10
  16. pháp lý, điều tra xã hội học, tổng kết thực tiễn, phân tích thuần túy quy phạm để nghiên cứu, tham khảo các công trình nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài, khai thác thông tin tư liệu để chứng minh cho các luận điểm mà luận án đã đề cập. Phương pháp hệ thống, quy nạp, diễn dịch, phân tích, so sánh, tổng hợp được sử dụng ở chương 1 và chương 2 của luận án để làm rõ những luận điểm của Tác giả làm cơ sở cho việc chứng minh bằng thực tiễn ở chương 3 và đề xuất giải pháp tăng cường đảm bảo quyền con người của người bị buộc tội ở chương 4; Phương pháp khảo sát, thống kê và so sánh, phân tích được sử dụng ở chương 3 luận án để thống kê, phân tích dữ liệu, số liệu và các báo cáo nghiệp vụ của ngành Kiểm sát nhân dân ở từng thời điểm, từ đó khái quát hóa, chính xác hóa và tổng hợp rút ra ưu điểm cần phát huy và khuyết điểm, hạn chế, thiếu sót cùng nguyên nhân để khắc phục; Phương pháp nghiên cứu điển hình được sử dụng để nghiên cứu, phân tích những ưu điểm và thiếu sót, tồn tại trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát qua một số vụ án rút kinh nghiệm nâng cao kỹ năng tranh luận, luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa, được sử dụng ở chương 3 luận án Ngoài ra Tác giả luận án còn sử dụng phương pháp điều tra xã hội học; trao đổi tọa đàm với các Kiểm sát viên, Điều tra viên, Thẩm phán, Luật sư, các nhà khoa học luật, cán bộ giảng dạy có nhiều uy tín và kinh nghiệm để lập luận cho quan điểm của mình; Phương pháp tiếp cận hệ thống để nghiên cứu, phân tích, đánh giá việc đảm bảo quyền con người của người bị buộc tội ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự trong tổng thể những yếu tố có liên quan tác động qua lại với nhau tạo ra một chỉnh thể thống nhất về lý luận và thực tiễn khi nghiên cứu khoa học về quyền con người trong tố tụng hình sự; Phương pháp tiếp cận liên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự cho chúng ta thấy luật tố tụng hình thức quy định cách thức, thể thức pháp lý để người bị buộc tội thực hiện quyền và bảo vệ quyền, các chủ thể tiến hành tố tụng có nghĩa vụ, trách nhiệm đảm bảo quyền con người của người bị buộc tội, vì họ được coi là chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự khi đối với người đó đã có quyết định khởi tố bị can cho đến khi có Bản án, quyết định kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật (tức người đã thực hiện hành vi phạm tội) nên họ phải là chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự và tố tụng hình sự; 11
  17. Tiếp cận đa ngành đòi hỏi việc nghiên cứu còn phải dựa trên sự phối hợp của các ngành khoa học xã hội. Tiếp cận lịch sử đòi hỏi việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá đề tài luận án phải dựa trên quan điểm lịch sử cụ thể để đánh giá ưu điểm, tồn tại, thiếu sót trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, tìm nguyên nhân, đề xuất biện pháp khắc phục trong giai đoạn kế tiếp. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án có 04 chương như sau: Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu; Chương 2: Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát; Chương 3: Thực tiễn bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát; Chương 4: Quan điểm định hướng và giải pháp tăng cường bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội trong hoạt động chứng minh buộc tội của Viện kiểm sát ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. 12